Xuân Chu - Ngày đặc biệt https://ngaydacbiet.com/category/xuan-chu/ Tổng hợp ngày nghỉ lễ âm lịch, dương lịch và sự kiện trong năm Fri, 16 Jul 2021 18:16:34 +0000 vi hourly 1 https://ngaydacbiet.com/wp-content/uploads/2024/07/cropped-000777066-r503366006-1-32x32.webp Xuân Chu - Ngày đặc biệt https://ngaydacbiet.com/category/xuan-chu/ 32 32 Câu Tiễn nằm gai nếm mật https://ngaydacbiet.com/cau-tien-nam-gai-nem-mat/ https://ngaydacbiet.com/cau-tien-nam-gai-nem-mat/#respond Fri, 16 Jul 2021 18:16:34 +0000 https://ngaydacbiet.com/cau-tien-nam-gai-nem-mat/ Ngô Vương Hạp Lư đánh bại nước Sở, trở thành bá chủ ở phương Nam. Nước Ngô vốn bất hòa với nước láng giềng là nước Việt (đô thành ở Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang ngày nay) Lịch sử Trung Quốc năm 496 trước Công nguyên, Việt vương Câu Tiễn lên ngôi, Ngô Vương nhân […]

Bài viết Câu Tiễn nằm gai nếm mật đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Ngô Vương Hạp Lư đánh bại nước Sở, trở thành bá chủ ở phương Nam. Nước Ngô vốn bất hòa với nước láng giềng là nước Việt (đô thành ở Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang ngày nay)

Lịch sử Trung Quốc năm 496 trước Công nguyên, Việt vương Câu Tiễn lên ngôi, Ngô Vương nhân dịp nước Việt vừa có tang, liền mang quân đánh. Hai bên giao chiến một trận lớn ở đất Túy Lý (nay ở tây nam Gia Hưng, Triết Giang)

Ngô Vương Hạp Lư tin chắc rằng mình có thể đánh thắng, nhưng không ngờ lại bị thất bại, bản thân trúng tên bị trọng thương, vì tuổi đã cao, khi về tới nước Ngô thì chết.

Hạp Lư chết, con là Phù Sai nối ngôi. Trước khi chết, Hạp Lư dặn lại: “Không được quên báo thù nước Việt”.

Phù Sai ghi nhớ lời dặn của cha, bảo người khác thường xuyên nhắc nhở mình; mỗi khi ra vào cửa cung, thủ hạ đều quát lớn: “Phù Sai! Ngươi đã quên mối thù Việt vương đã giết cha ngươi rồi sao?” Phù Sai chảy nước mắt trả lời: “Không. Không dám quên”.

Ông ta sai Ngũ Tử Tư và một đại thần khác là Bá Phỉ luyện tập binh mã, chuẩn bị đánh nước Việt.

Hai năm sau, Ngô vương Phù Sai tự dẫn đại quân đi đánh Việt. Nước Việt có hai quan đại phu giỏi, là Văn Chủng và Phạm Lãi. Phạm Lãi nói với Câu Tiễn: “Nước Ngô luyện binh gần ba năm nay. Lần này chúng quyết tâm báo thù, khí thế rất hung hãn. Ta nên giữ vững thành, không nên ra đánh với chúng”.

Câu Tiễn không đồng ý, mang đại quân ra quyết chiến. Quân hai nước giao chiến một trận lớn ở vùng Thái Hồ, quân Việt quả nhiên đại bại.

Việt Vương Câu Tiễn dẫn năm ngàn tàn binh bại tướng chạy về đến Cối Kê, bị quân Ngô vây chặt. Câu Tiễn không tìm ra biện pháp gì, liền nói với Phạm Lãi: “Ta rất hối hận đã không nghe theo lời ngươi. Bây giờ đến tình cảnh này, phải làm thế nào đây?”.

Phạm Lãi nói: “Phải mau cầu hoà thôi”.

Câu Tiễn phái Văn Chủng sang trại quân Ngô xin hoà. Văn Chủng tâu xin với Phù Sai cho Câu Tiễn đầu hàng. Phù Sai toan đồng ý, nhưng Ngũ Tử Tư kiên quyết phản đối.

Văn Chủng trở về, dò biết Bá Phỉ ở nước Ngô là kẻ tiểu nhân tham tài háo sắc, liền ngầm đưa một số mỹ nữ và châu ngọc sang biếu Bá Phỉ, nhờ hắn nói giúp với Phù Sai.

Nghe lời khuyên của Bá Phỉ, Ngô Vương Phù Sai bác ý kiến phản đối của Ngũ Tử Tư, đồng ý cho Câu Tiễn đầu hàng, nhưng yêu cầu Câu Tiễn phải thân tới nước Ngô. Văn Chủng về tâu lại với Câu Tiễn. Câu Tiễn trao mọi việc trong nước cho Văn Chủng, rồi cùng vợ và Phạm Lãi sang Ngô.

Untitled

Câu Tiễn đến nước Ngô. Phù Sai cho vợ chồng Câu Tiễn ỏ trong một gian nhà đá cạnh phần mộ của Hạp Lư, sai Câu Tiễn nuôi ngựa, còn Phạm Lãi làm công việc của nô lệ. Mỗi lần Phù Sai đi xe, Câu Tiễn phải dắt ngựa hầu. Cứ như thế trong hai năm, Phù Sai cho rằng Câu Tiễn đã thực bụng quy thuận liền cho Câu Tiễn về nước.

Về tới nước Việt, Câu Tiễn lập chí báo thù rửa hận. Ông sợ cuộc sống an nhàn làm tiêu tan mất chí khí, liền treo một cái mật đang ở nơi ăn cơm, trước mỗi bữa ăn, đều nếm một chút mật đắng, rồi tự hỏi mình: “Nhà ngươi có quên mối nhục ở Cối Kê không?” Ông ta còn bỏ chiếu dùng cỏ cây làm đệm nằm. Việc đó được người đời sau gọi là “Nằm gai nếm mật”.

Để làm cho nước Việt giàu mạnh, Câu Tiễn tự mình tham gia cày bừa, bảo vợ tự dệt vải để khuyến khích dân chúng đẩy mạnh sản xuất. Vì nước Việt lâm vào họa mất nước, nhân khẩu giảm nhiều ông ta liền đề ra chế độ khuyến khích sinh đẻ. Mặt khác, Câu Tiễn trao cho Văn Chủng quản lý việc lớn quốc gia, cho Phạm Lãi huấn luyện quân đội, bản thân khiêm tốn nghe theo ý kiến của mọi người, chú trọng cứu tế cho dân nghèo. Nhân dân toàn quốc đều dốc sức để đưa đất nước bị đè nén đó nhanh chóng trở thành cường quốc.

Bài viết Câu Tiễn nằm gai nếm mật đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/cau-tien-nam-gai-nem-mat/feed/ 0
Phạm Lãi và Văn Chủng https://ngaydacbiet.com/pham-lai-va-van-chung/ https://ngaydacbiet.com/pham-lai-va-van-chung/#respond Fri, 16 Jul 2021 17:35:46 +0000 https://ngaydacbiet.com/pham-lai-va-van-chung/ Việt Vương Câu Tiễn chỉnh đốn chính sự, khuyến khích sản xuất, làm cho thế nước dần dần giàu mạnh lên. Ông liền cùng hai đại phu là Văn Chủng và Phạm Lãi bàn bạc về kế hoạch đánh Ngô. Lúc đó, Ngô Vương Phù Sai vì đã được làm bá chủ nên trở thành kiêu căng, […]

Bài viết Phạm Lãi và Văn Chủng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Việt Vương Câu Tiễn chỉnh đốn chính sự, khuyến khích sản xuất, làm cho thế nước dần dần giàu mạnh lên. Ông liền cùng hai đại phu là Văn Chủng và Phạm Lãi bàn bạc về kế hoạch đánh Ngô.

Lúc đó, Ngô Vương Phù Sai vì đã được làm bá chủ nên trở thành kiêu căng, ham mê hoang lạc. Văn Chủng khuyên Câu Tiễn dâng gái đẹp cho vua Ngô, Câu Tiễn liền sai người đi khắp nước để tìm những con gái đẹp nhất. Kết quả tìm được một cô gái tuyệt sắc tên là Tây Thi ở núi Trữ La (nay ở phía nam Chư Hý, tỉnh triết Giang). Câu Tiễn cử Phạm Lãi đưa Tây Thi sang dân cho Phù Sai.

Phù sai nhìn thấy Tây Thi có dung mạo tuyệt vời, như tiên giáng trần, hết lòng sủng ái.

Một lần, nước Việt Văn Chủng sang gặp Hạp Lử, nói nước Việt mất mùa, dân chúng bị đói, xin nước Ngô cho vay một vạn thạch lương, năm sau sẽ trả đủ.Phù Sai thấy có Tây Thi trước mặt, liền đáp ứng ngay.

Năm sau, nước Việt được mùa Văn Chủng lại mang một vạn thạch lương trả lại cho nước Ngô. Phù Sai thấy nước Việt giữ tín nghĩa, rất yên tâm và cao hứng, Ông ta vốc lúa lên xem, thấy hạt nào cũng căng may, liền nói với Bá Phỉ: “Hạt lúa của nước Việt căng mẩy hơn lúa của ta. Hãy phát một vạn thạch lúa này cho dân chúng làm giống.

Bá Phỉ đem số lúa đó phát cho nông dân, hạ lệnh đem gieo trồng. Đến mùa xuân, hạt giống được gieo xuống, đợi tái mười mấy ngày, vẫn không nảy mầm. Mọi người nghĩ, có thể là hạt giống tốt thì nảy mầm chậm chăng, liền kiên nhẫn chờ đợi thêm. Không ngờ, sau một số ngày nữa những hạt giống đó đều thối rữa hết. Họ muốn thay bằng hạt giống của nước Ngô, thì đã lỡ mất thời vụ.

Năm đó, nước Ngô gặp nạn đói lổn, dân chúng đều oán giận Phù Sai. Họ đâu có biết đó là kế của Văn Chủng. Một vạn thạch lúa đó đều đã được đem hấp chín rồi phơi khô, làm sao có thể mọc mầm được nữa?

Câu Tiễn nghe tin nước Ngô bị nạn đói, muốn nhân cơ hội đưa quân sang đánh.

Vàn Chủng nói: “Vẫn còn sớm. Một là, nước Ngô tuy bị đói, trong nước vẫn chưa khánh kiệt. Hai là, Ngũ Tử Tư còn đó, chưa dễ hành động”.

Câu Tiễn thấy Văn Chủng nói có lý, lại tiếp tục cho thao luyện binh mã và tuyển thêm quân.

Lịch sử Trung Quốc năm 484 trước Công nguyên, Ngô Vương Phù Sai muốn đi đánh Tề. Ngữ Tử Tư vội đi gặp Phù Sai, can: “Tôi nghe tin Câu Tiễn nằm gai nếm mật, đồng cam cộng khổ với dân chúng,’xem ra có ý muốn đánh báo thù nước Ngô. Nếu không trừ diệt Câu Tiễn, thì sẽ là hậu hoạ cho nước Ngô. Xin đại vương đi đánh nước Việt trước”.

Untitled

Phù Sai không chịu nghe theo lời Ngũ Tử Tư, cứ đem quân đánh Tề, kết quả thắng trận đem quân về. Văn võ bá quan đều tới chúc mừng, nhưng Ngũ Tử Tư lại nói: “Đánh lại được Tề, chỉ là mối lợi nhỏ; Nước Việt lại diệt nước Ngô, mới là mối họa lớn”.

Do đó, Phù Sai càng ngày càng chán ghét Ngũ Tử Tư, cộng thêm sự gièm pha của Bá Phỉ, nên Phù Sai trao cho Ngũ Tử Tư một thanh kiếm, buộc ông tự sát.

Trước khi chết, Ngũ Tử Tư uất hận nói với sứ giả của Phù Sai: “Hãy móc hai con mắt ta, treo trên cửa đông của nước Ngô để ta xem Câu Tiễn đánh vào như thế nào?”

Phù Sai giết Ngũ Tử Tư rồi, liền phong Bá Phỉ làm Thái Tể.

Năm 482 trước Công nguyên, Ngô Vương Phù Sai hẹn với Lỗ Ại Công, Tấn Định Công đến họp ở Hoàng Trì (nay ở Tây nam huyện Phong Khâu, tỉnh Hà Nam), đem theo tất cả quân tinh nhuệ, chỉ để lại một số quân già yếu.

Khi Phù Sai dương dương tự đắc từ Hoàng Trì trở về, thì Việt Vương Câu Tiễn đã đem đại quân sang chiếm đô thành Cô Tô. Quân Ngô từ xa trở về, đều rất mỏi mệt, lại gặp phải quân Việt được huấn luyện lâu ngày, tinh thần hăng hái. Hai bên giao chiến, quân Ngô đại bại.

Phù Sai không có cách nào khác, phải sai Bá Phỉ sang gặp Câu Tiễn xin hòa, Câu Tiễn bàn với Phạm Lãi, quyết định tạm thời chấp nhận giảng hòa, rút quân về nước.

Năm 475 trước Công nguyên, Câu Tiễn chuẩn bị đầy đủ, liền tiên công đại qui mô vào nước Ngô. Nước Ngô thua trận liên tiếp. Quân Việt bao vây đô thành nước Ngô suốt hai năm trời. Phù Sai không còn đường thoát, than thở; “Ta không còn mặt mũi nào gặp lại Ngũ Tử Tư nữa.” Nói xong, lấy tay áo che mặt tự sát.

Việt Vương Câu Tiễn diệt xong nước Ngô, ngồi tại triều dinh của Phù Sai. Phạm Lãi, Vãn Chủng và các quan lại khác đều tới triều kiến. Bá Phỉ, thái tể của nước Ngô cũng đứng ở đó để chờ phong thưởng. Hắn cho rằng mình đã giúp đỡ Câu Tiễn rất nhiều.

Câu Tiễn nói với Bá Phỉ: “Ngươi là đại thần của nước Ngô, ta không dám nhận ngươi làm bầy tôi. Ngươi hãy đi làm bạn với quốc quân của ngươi.”

Bá Phỉ nhục nhã lui ra. Câu Tiễn phái người đuổi theo, giết chết.

Diệt xong nước Ngô, Câu Tiễn lại dẫn đại quân vượt qua sông Hoài, họp với các nước chư hầu Trung Nguyên ở Từ Châu. Thiên Tử nhà Chu cũng phái sứ thần mang thịt tế đến tặng Câu Tiễn. Từ đó về sau, binh mã nước Việt hoành hành suốt dải Giang – Hoài, các nước chư hầu đều thừa nhận Việt là bá chủ.

Câu Tiễn đắc thắng trở về, mở đại hội mừng công, khen thưởng các công thần, nhưng thấy thiếu mặt Phạm Lãi. Truyền thuyết nói ông mang theo Tây Thi, thay tên đổi họ đi tới nước khác.

Trước khi đi, Phạm Lãi để lại cho Văn Chủng một bức thư nói: “Chim dữ đã hết, thì cung nỏ tốt bị gác bỏ;thỏ đã săn hết, thì chó săn bị làm thịt. Con người Câu Tiễn chỉ có thể chung hoạn nạn, chứ không thể chung yên vui. Ông nên bỏ đi cho mau”.

Văn Chủng không nghe. Một hôm, Câu Tiễn cử ngưòi đưa tới một thanh kiếm. Văn Chủng nhìn xem. thì đúng là thanh kiếm mà Phù Sai đã trao cho Ngũ Tử Tư. Ván Chủng hôi hận đã không tin theo lời của Phạm Lãi, đành phải tự sát. Ngô Việt tranh bá đã là một khúc vĩ thanh của thòi Xuân Thu. Theo đà phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất và các cuộc khởi nghĩa không ngừng của nô lệ, xã hội nô lệ dần dần tan rã. Đến năm 475 trước Công nguyên, bắt đầu thời kỳ Chiến quốc, xã hội Trung Quốc cũng bước sang chế độ phong kiến.

Bài viết Phạm Lãi và Văn Chủng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/pham-lai-va-van-chung/feed/ 0
Tôn Vũ (Tôn Tử) nhà quân sự kiệt xuất https://ngaydacbiet.com/ton-vu-ton-tu-nha-quan-su-kiet-xuat/ https://ngaydacbiet.com/ton-vu-ton-tu-nha-quan-su-kiet-xuat/#respond Fri, 16 Jul 2021 16:35:39 +0000 https://ngaydacbiet.com/ton-vu-ton-tu-nha-quan-su-kiet-xuat/ Tôn Vũ là nhà quân sự kiệt xuất thời cổ đại Trung Quốc. Tự là Trường Khanh, người đời sau tôn xưng là Tôn Tử hoặc Tôn Vũ Tử, sinh tại Lạc An, nay là huyện Huệ Dân tỉnh Sơn Đông Trung Quốc, xưa thuộc nước Tề. Không có tư liệu nào về năm sinh […]

Bài viết Tôn Vũ (Tôn Tử) nhà quân sự kiệt xuất đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Tôn Vũ là nhà quân sự kiệt xuất thời cổ đại Trung Quốc. Tự là Trường Khanh, người đời sau tôn xưng là Tôn Tử hoặc Tôn Vũ Tử, sinh tại Lạc An, nay là huyện Huệ Dân tỉnh Sơn Đông Trung Quốc, xưa thuộc nước Tề. Không có tư liệu nào về năm sinh và năm mất của ông, ta chỉ có thể căn cứ vào tư liệu về hoạt động và trước tác của ông để ước đoán rằng ông sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, đầu thế kỷ thứ V TCN cùng thời với Khổng Từ (561 – 479 TCN) vào cuối thời Xuân Thu (770 – 476 TCN), và có thể ít tuổi hơn Khổng Tử một chút. Đặc điểm thời đại và nơi sinh trưởng, truyền thống gia tộc của Tôn Vũ cộng với thiên tư trác tuyệt của bản thân, đã tạo nên nhân vật vĩ đại này.

Tôn Tử tên thật là Tôn Vũ. Tranh vẽ thời nhà Minh
Tôn Tử tên thật là Tôn Vũ (Xuân Thu). Tranh vẽ thời nhà Minh

Hoàn cảnh lịch sử

Thời Xuân Thu, giai đoạn đầu của Đông Chu (770 – 225 TCN). Trung Quốc ở vào bước chuyển biến dữ dội cả về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Việc sử dụng rộng rãi công cụ bằng sắt và kỹ thuật canh tác dùng sức kéo của trâu bò đã khiến sức sản xuất phát triển vượt bậc, tăng mạnh diện tích khai khẩn đất đai, mở ra khả năng tổ chức sản xuất trên quy mô lớn hơn và cơ động hơn. Kết quả tất yếu là chế độ tỉnh điền cổ lỗ buộc người dân vào một diện tích cố định ở một địa điểm cố định bị phá vỡ. Thay vào đó là việc chiếm lĩnh đất đai của tầng lớp địa chủ mới nổi lên từ số chủ nô biết thích ứng với tình hình mới. Họ đã biến những nô lệ cũ thành nông nô một loại lao động “tự do” hơn, có hứng thú lao động và sáng tạo hơn.

Thời kỳ này, do chế độ phong kiến phân quyền, nên tạo ra nhiều chư hầu. Các nước chư hầu đã nổi loạn tự do hoành hành thôn tính lẫn nhau và do vậy Khổng Từ đã gọi tình trạng này là từ “lễ nhạc, chỉnh phạt tự thiên tử xuất” (Việc lễ nhạc và đánh dẹp từ thiên tử ban lệnh ra) chuyển sang “Lễ nhạc, chinh phạt tự chư hầu xuất” (Việc lễ nhạc và đánh dẹp do chu hầu tự tiến hành) mà ông phê phán là “thiên hạ vô đạo”. Việc “vô đạo” này còn đi xa hơn nữa: trong một số nước chư hầu, các quan khanh, đại phu lũng loạn triều chính, xây dựng thế lực riêng đưa ra những sáng kiến cải cách khác nhau đem quân đánh chiếm thái ấp của nhau, hình thành thực trạng “lễ nhạc, chinh phạt tự khanh đại phu xuất”.

Điều kiện khách quan ra đời Tôn Tử binh pháp

Xung đột quân sự và chiến tranh diễn ra liên miên ở mọi quy mô từ đầu thời Xuân thu đến khi Tôn Vũ ra đời tới số lượng hàng trăm cuộc. Kiến thức quân sự đương thời cộng với kinh nghiệm chiến tranh từ thời HạThương-Ân truyền lại đã cung cấp một khối lượng tư liệu phong phú để Tôn Vũ, với sự nhạy bén bẩm sinh đã hệ thống hóa và khái quát hóa làm thành tác phẩm bất hủ của mình: Tôn tử binh pháp. Học giả đời Minh là Mao Nguyên Nghỉ đã nhận xét về công lao này với câu nói ngắn gọn: “Tiền Tôn Tử giả, Tôn Tử bất di…” (Những người trước Tôn Tử, Tôn Tử không bỏ sót ai…)

Sống giữa thời đó, lại sinh trưởng ở nước Tề, là một thuận lợi nữa đối với sự phát triển tài năng của Tôn Vũ. Tề là nước chư hầu được phong từ đầu thời Tây Chu. Vốn là vùng đất ven biển, xa kinh đô của chính quyền Trung ương, người dân bản địa (Sử Trung Quốc cổ gọi họ là người Đông Di) sống phóng khoáng trên vùng đất màu mỡ ven biển thuộc hạ du Hoàng Hà chưa quen thần phục nhà Chu. Biết điều đó, Chu Thành Vương với sự nhiếp chính của chú là Chu Công Đán đã ủy thác cho Lã Thượng (tức Khương Tử Nha), một công thần khai quốc tài kiêm văn võ, ra làm Tề hầu, lập ra nước Tề, nơi yếu địa chiến lược, để “vỗ về dân chúng” thần phục nhà Chu.

Không phụ lòng ủy thác đó, Lã Thượng đã cho thi hành một loạt chủ trương khéo léo để ổn định lòng dân, biến Tề từ một vùng dân cư thưa thớt, phân tán thành một nước giàu mạnh. Trong những chủ trương nhằm tạo điều kiện cho sự sáng tạo học thuật: – tôn trọng phong tục bản địa, sự phóng khoáng trong ngôn luận, và tư duy, không gò bó người dân theo những giáo điều, những điển chế nghiêm ngặt của nhà Chu. Về mặt này, nước Tề khác nhiều với nước Lỗ, một nước chư hầu kế cận, do con của Chu Công Đán lập nên. Vì thuộc đích hệ nhà Chụ, Lỗ là nước lưu giữ và tuân thủ nghiêm ngặt nhất mọi điển chương chế độ, do Chu Công Đán chế định, nên về sau càng ngày càng bảo thủ. Nó đã hạn chế nhiều lụồng tư tưởng sáng tạo. Nước Tề trái lại đã tạo môi trường thuận lợi cho học thuật phát triển. Tác giả Tôn tử binh pháp đã sống và trau dồi kiến thức trong môi trường đó. Phải kể đây là điều kiện khách quan quan trọng giúp ông trở thành một học giả lớn của thời đại.

Ngoài ra, chủ trương tôn trọng người hiền tài, khuyến khích người có công không kể xuất thân là quý tộc hay bình dân do Lã Thượng đề xướng đã trở thành truyền thống của nước Tề, làm xuất hiện những nhà chính trị tài giỏi như Quản Trọng, Án Anh, mở ra con đường tiến thủ cho kẻ sĩ đời sau mà Tôn Vũ là nhân vật tiêu biểu.

Truyền thống gia tộc là một nhân tố quan trọng nữa tạo nên nhân cách và tài năng Tôn Vũ.

Lai lịch và gia tộc Tôn Vũ

Ông tổ 7 đời của Tôn Vũ là Công Tử Hoàn nước Trần do nổi loạn phải chạy sang nước Tề lánh nạn vào năm 672 TCN, được Tề Hoàn Công phong cho chức “Công chính” là chức quan trông coi ngành thủ công nghiệp. Từ đây, Trần Hoàn đổi sang họ Điền và gây dựng dòng họ này thành một dòng họ mạnh, đời đời đều có người giữ chức khanh đại phu nước Tề. Đến thời Chiến Quốc, vào năm 404 TCN, đã chiếm ngôi Vua chư hầu nước Tề từ tay họ Lã.

Ông tổ 4 đời của Tôn Vũ là Điền Vô Vũ, một võ tướng tài năng thời Tề Trang Công (ở ngôi Vua từ 553 – 547 TCN) giữ chức Thượng đại phu, đã liên hợp với họ Bào, diệt hai họ Loan và Cao, phát triển thế lực họ Điền.

Con thứ hai của Điền Vô Vũ là Điền Thư, ông nội của Tôn Vũ, cũng lập võ công hiển hách. Năm 523 TCN, Điền Thư theo tướng Cao Phát đi đánh nước Cử, đã độc lập chấp hành nhiệm vụ, chiếm được thành Kỷ, buộc Vua Cử là Cử Cộng phải tháo chạy. Do chiến công này, Điền Thư được phong thái ấp ở Lạc An và ban cho họ Tôn. Do vậy Điền Thư cũng được gọi và Tôn Thư và đất Lạc An trở thành quê hương của Tôn Vũ.

Gia tộc họ Điền còn có Điền Nhương Thư, thuộc chi khác, lớn tuổi hơn Tôn Vũ một chút, làm quan Đại Tư mã –  chức quan võ cao cấp thời đó, nên cũng được gọi là Tư Ma Nhương Thư. Tài dùng binh và chiến công của Tư Mã Nhương Thư đã được nhà sử học Tư Mã Thiên ghi lại sinh động trong Sử ký – Tư Mã Nhương Thư liệt truyện. Do việc tranh giành quyền lực giữa các dòng họ Nhương Thư tuy lập được công trạng to lớn vẫn bị gièm pha, bị Tề Cảnh Công cắt chức Đại Tư Mã rồi uất hận phát bệnh mà chết (vào khoảng 518 TCN).

Rời bỏ nước Tề sang Ngô

Tôn Vũ lúc ấy khoảng từ 20 – 30 tuổi, bị chấn động lớn về tinh thần vì sự kiện này, buồn chán và thất vọng trước sự hủ bại về chính trị cuối thời Tề Cảnh Công, không muốn để mình bị liên lụy vì cuộc xâu xé gay gắt giữa các dòng họ, liền rời bỏ nước Tề, sang với nước Ngô, một nước đang hưng vượng thuộc miền Giang – Triết. Sang Ngô, Tôn Vũ gặp gỡ Ngũ Tử Tư, một nhân tài từ nước Sở trốn sang Ngô để tìm cách mượn quân nước Ngô về đánh Sở, trả thù việc Sở Bình Vương đã giết cha mình là Ngũ Xa. Hai con đại bàng, một từ Tề xuống, một từ Sở sang, đều có chí lớn tài cao nên nhanh chóng kết bạn. Đôi bạn này sẽ là những nhân vật chủ yếu giúp nước Ngô vươn lên ngôi Bá cuối thời Xuân Thu.

Dâng binh pháp cho Ngô Vương

Ngũ Tử Tư được Hạp Lư quốc vương nước Ngô dùng làm hành nhân, là chức quan lo việc tiếp khách và nhận lễ vật dâng lên Vua. Hiểu rõ hoài bảo của Hạp Lư muốn tranh hùng xưng Bá, Tử Tư liền tiến cử Tôn Vũ người bạn sơ giao nhưng đã sớm tỏ rõ kiến thức uyên bác do tích lũy được từ thời ở nước Tề lên Ngô Vương Hạp Lư. Việc này xảy ra vào năm 512 TCN. Sử Ký-Tôn Tử, Ngô Khởi liệt truyện đã miêu tả khá kỹ và sinh động câu chuyện Tôn Vũ dâng 13 thiên binh Pháp và tiến hành huấn luyện thí điểm cho cung nữ (Sử Trung Quốc gọi là “Cung trung giáo chiến“) như thế nào. Được dùng làm tướng Tôn Vũ lập tức tỏ rõ nhân quan chiến lược của mình trong lời can Hạp Lư ” Dân mệt, chưa đánh được, hãy chờ”. (*)

Đó là lúc Hạp Lư, nôn nóng muốn tung quân đánh dốc vào nước Sở sau khi thắng Sở một trận nhỏ trong cuộc giao tranh ở biên giới: Với lời can đó, Tôn Vũ đã thể hiện tư tưởng mà ông đã trình bày kỹ trong 13 thiên Binh Pháp: Phải tích lũy đủ lực lượng, nuôi dưỡng sức dân, chỉ đánh khi đã cầm chắc thắng lợi. Sau đó, Tồn Vũ đã tán đồng sách lược do Ngũ Tử Tư đề xướng: chia quân Ngô làm 3 bộ phận, luân lưu quấy nhiễu biên giới nước Sở, nhưng tránh giao chiến, chỉ hư trương thanh thế làm cho Sở luôn ở tình trạng nơm nớp lo đối phó, toàn quân căng thẳng mỏi mệt.

Sáu năm sau (506 TCN) Hạp Lư lại hỏi: “Đã đánh Sở được chưa?” Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư kiến nghị: “Trước hết phải dùng ngoại giao lôi kéo hai nước Đường, Thái là những nước nhỏ thường bị Sở ức hiếp, khiến họ liên minh với Ngô”. Thực hiện xong việc đó, liên quân ba nước Ngô – Đường -Thái cũng chỉ có hơn 5 vạn (Ngô: ba vạn, Đường, Thái mỗi nước có hơn 1 vạn). Trong khi đó, Sở, một nước đất rộng, dân đông có tới 20 vạn quân. Thắng bại trong trận quyết chiến này chủ yếu tùy thuộc vào tài dùng binh của Tôn Vũ.

Chiến tranh Ngô – Sở

Diễn biến của chiến tranh Ngô – Sở là sự thể hiện hùng hồn trên thực tiễn những điểm mà thiên tài vĩ đại này đã diễn đạt hết sức súc tích trên lý luận của 13 thiên Binh Pháp:

“Nghi binh lừa địch”

“Tránh thực đánh hư”

“Điều động dịch mà không để dịch điều động, xuất phát ở nơi kẻ địch không tới, tiến tới nơi kẻ địch không ngờ”

“Buộc đối phương phòng bị minh khắp nơi nên phải phân tán binh lực khắp nơi”

“Hình thành ưu thế ta nhiều địch ít” ở điểm quyết chiến…

Chỉ trong ba Tháng, quân Ngô đã thực hiện năm đòn đánh lớn:

– Nhử quân Sở do Lệnh Doãn Tử Thường chỉ huy hỏa tốc vượt sông Hán Thủy, đuổi quân Ngô từ Tiếu Biệt Sơn đến Đại Biệt Sơn (thuộc tỉnh Hồ Bắc) bị mệt nhoài mất hết nhuệ khí.

– Đánh đòn tiêu diệt đội quân chủ lực đã mỏi mệt của Sở ở Bá Cừ. Đội quân to lớn này tan vỡ, chủ tướng Tử Thường bỏ quân chạy trốn sang nước Trịnh.

– Thừa thắng truy kích quân Sở đến Thanh Phát Thủy (cũng thuộc Hồ Bắc), tiêu diệt thêm một bộ phận quan trọng.

– Gặp cánh quân cứu viện của Sở ở Ung Phệ (gần Kinh Sơn, Hồ Bắc) đội quân thắng lợi tung quân đánh mãnh liệt giết chết chủ tướng Sở Thẩm Doãn Tuất, quân Sở tan nát.

– Nước Sở hùng mạnh chỉ còn lại một số quân nhỏ bảo vệ kinh thành, quân Ngô khôn khéo nhử ra ngoài thành tiêu diệt nốt rồi ùa vào chiếm Ảnh Đô (cũng gọi là Sính Đô, Dĩnh Đô) Vua Sở là Chiêu Vương lúc đó đã khoảng 70 tuổi, trốn thoát, chui lủi nhục nhã trong dân chúng rối chạy sang tị nạn ở nước Tùy.

Chỉ nhờ sự giúp đỡ của nước Tần, Sở mới thoát khỏi sự chiếm đóng của Ngô. Năm 504 TCN, Tôn Vũ lại cùng với Ngũ Tử Tư đem quân đánh Sở, bắt sống tướng chỉ huy thủy quân Sở là Phan Tử Thần và Tiểu Duy Tử cùng với 7 quan đại phu làm cả nước Sở kinh hoàng, phải dời đô từ, Ảnh đến Nhược.

Trước tác về Tôn Vũ

Trước tác còn lại tới nay của Tôn Vũ là bộ Binh Pháp 13 thiên và một số văn bản mới khai quật được trong ngôi mộ đời Hán ở Ngân Tước Sơn, huyện Lâm Nghi tỉnh Sơn Đông vào năm 1972. Số văn bản này được ghi vào thẻ tre (trúc giản) gồm các thiên Ngô Vấn) (ghi lại các cuộc đàm đạo giữa Hạp Lư và Tôn Vũ), Tứ Biến (giải thích thêm về thiên Cửu Biển trong Binh Pháp Tôn Tử), Hoàng đế phạt xích đế (về các cuộc chiến tranh thời tối cổ), Địa hình nhị (có những ý kiến bổ sung cho thiên Địa hình trong Binh Pháp Tôn Tử), Kiến Ngô Vương (thuật lại cuộc hội kiến của tác giả với Ngô Vương Hạp Lư). Đây là tài liệu gốc mà Tư Mã Thiên chắc đã dựa vào để viết về Tôn Tử trong phần Tôn Tử – Ngô Khởi liệt truyện trong Sử Ký.

Đoạn đời sau mịt mờ

Đoạn đời sau của Tôn Vũ không có tư liệu nào ghi chép ngoài một đoạn ngắn trong Sử Ký…”Phía Tây quân Ngô phá nước sở mạnh, tiến chiếm Ảnh Đô, phía Bắc uy hiếp nước Tề, nước Tấn, nổi tiếng ở chư hầu, đều có công của Tôn Tử. Hơn một trăm năm sau, có Tôn Tẩn… Tẩn cũng là con cháu đời sau của Tôn Vũ”…

Tôn Vũ xuất hiện chói lọi trong lịch sử rồi lại thầm lặng rời khỏi vũ đài giống như một vệt sao băng băng ngang qua bầu trời Xuân Thu. Phải chăng thiên tài này đã tiên liệu được kết cục không mấy tốt đẹp của nước Ngô khi Hạp Lư say sưa vì thắng lợi, và con trai Ngô Phù Sai chìm đắm trong cuộc sống kiêu sa, dâm dật để chuốc lấy thảm bại trước nước Việt hơn mười năm sau đó? Phải chăng, ông cũng hành động giống như Phạm Lãi của nước Việt sau này, kịp thời rời bỏ tước lộc sau khi phò tá Câu Tiễn diệt Ngô? Đoạn đời sau của hai nhân vật trên đều mịt mờ trong màn sương huyền thoại.

Nhưng với Tôn Vũ, cái mà ông lưu lại cho hậu thế là bất tử. Tác phẩm binh pháp của ông đã lưu truyền và được ca ngợi khắp thế giới. Danh hiệu “Thủy tổ binh học phương đông” “thủy tổ binh, học thế giới”, “ông thánh về binh học” hoàn toàn xứng đáng với ông. Đúng như nửa sau câu nói của Mao Nguyên Nghi: “… Hậu Tôn Từ giả, bất năng di Tôn Tử” (Những người sau Tôn Tử, không thể bỏ qua được Tôn Tử).

Almanach,

Bài viết Tôn Vũ (Tôn Tử) nhà quân sự kiệt xuất đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/ton-vu-ton-tu-nha-quan-su-kiet-xuat/feed/ 0
Chu Bình Vương: Cơ Ý Cữu https://ngaydacbiet.com/chu-binh-vuong-co-y-cuu/ https://ngaydacbiet.com/chu-binh-vuong-co-y-cuu/#respond Fri, 16 Jul 2021 15:41:38 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-binh-vuong-co-y-cuu/ Chu Bình Vương tên thật là Cơ Ý Cữu (một số tài liệu tên là Cơ Nghi Cữu). Ông là con trai của Chu U Vương. U Vương bị giết, ông ta được giúp làm vua. Trị vì 51 năm, chết ở Lac An (nay thuộc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam) mai táng […]

Bài viết Chu Bình Vương: Cơ Ý Cữu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Bình Vương tên thật là Cơ Ý Cữu (một số tài liệu tên là Cơ Nghi Cữu). Ông là con trai của Chu U Vương. U Vương bị giết, ông ta được giúp làm vua. Trị vì 51 năm, chết ở Lac An (nay thuộc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam) mai táng ở Bình Khâu (nay thuộc thôn Kim Thôi huyện Thái Khang tỉnh Hà Nam).

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 720 TCN

* Lúc U Vương trị vì đã lập Cơ Ý Cữu làm thái tử, sau khi U Vương sủng ái Bao Tự, đã phế Ý Cữu, lập Bá Phục làm thái tử. Một hôm U Vương thấy Ý Cữu chơi trong vườn, ông thả một con hổ vào vườn, dự tính cho con hổ cắn chết Ý Cữu. Lúc ấy Ý Cữu rất bình tĩnh, con hổ định vồ Ý Cữu, ông ta không sợ hãi chạy trốn mà tiến thẳng đến phía trước, hét to, làm cho con hổ kinh hãi lùi lại vài bước nằm phục trên mặt đất quan sát động tĩnh. Ý Cữu ung dung bước đi. Ông ta biết đây là dã tâm của cha muốn hại chết mình, ông liền cùng với mẹ lén lút chạy tới chỗ cậu của ông ta là Thân hầu.

Khuyển Nhung tấn công vào thành Cảo Kính giết chết U Vương rồi rút quân về miền Tây. Các chư hầu như: Thân, Lỗ, Hứa lập Ý Cữu làm vua, năm 770 TCN làm lễ đăng quang ở đất Thân (nay thuộc phía Bắc thành phố Nam Dương tỉnh Hà Nam).

Do thành Cảo Kinh bị chiến tranh tàn phá, không lâu sau Ý Cữu dưới sự hộ tống của nước Tấn đã dời đô tới Lạc Ấp, các nước chư hầu như: Tấn, Trịnh phải phụ giúp miễn cưỡng nhường lại đất. Sử sách gọi là Đông Chu. Năm này là năm mở đầu của Đông Chu và cũng là mở màn thời Xuân Thu. Lên ngôi vua cùng lúc với Ý Cữu chư hầu Hoắc Công Hàn cũng lập một người con khác của U Vương là Huề Vương làm vua, do đó xuất hiện cục diện hai nước Chu cùng tồn tại song song.

Mười năm sau, Tấn Văn Hầu giúp Ý Cữu giết Huề Vương, vương triều Chu lại thống nhất làm một.

Vì Tần Tương Công có công lớn trong việc giúp Ý Cữu dời đô nên Ý Cữu đã phong cho ông ta làm chư hầu và ban sắc lệnh nói: “Người Nhung đánh chiếm Cảo Kinh và địa khu Kỳ Sơn, ngươi hãy đem quân đi đánh họ, đánh được nơi nào thì nơi đó sẽ thuộc về nước Tần”.

Không lâu sau, Tần lấy được phía Tây của địa khu Kỳ Sơn, nước Tần đó phát triển mạnh.

Do đất của cố hương bị mất, vùng đất của Vương triều Đông Chu chỉ ngăn cách bởi phía Tây Bắc tỉnh Hà Nam, phía Đông đến Vĩnh Dương, phía Tây đến Lâm Quan, phía Nam đến Nhũ Thủy, phía Bắc chỉ đến bờ Nam sông Thủy, xung quanh chỉ có 600 dặm, đất hẹp người thưa, vô số nước chư hầu lớn vây xung quanh nó chỉ tương đương với một nước chư hầu hạng trung.

Vương triều Chu suy bại.

Các nước lớn như: Trịnh, Tấn, Tề, Lỗ, Yên, Sở, Tống… đều tranh nhau: đất đai dân số và quyền chi phối các nước chư hầu khác, chiến tranh cứ xảy ra liên miên, hình thành cục diện hỗn loạn chư hầu tranh bá, lịch sử Trung Quốc bước vào thời kỳ rối ren.

Trong thời gian Cơ Ý Cữu trị vì, đã giao phó cho Trịnh Trang Công giám sát triều đình, về sau nước Trịnh thế lực hùng mạnh, Cơ Ý Cữu nhìn thấy Trịnh Trang Công có dã tâm, không muốn triều đình bị Trịnh Trang Công thao túng. Nhân cơ hội nước Trịnh xảy ra nhiều chuyện, Trịnh Trang Công không có thời gian đến nhận chức Ý Cữu bãi bỏ chức vị của Trịnh Trang Công. Trịnh Trang Công biết tin lập tức đến Lạc Dương, gây áp lực với Ý Cữu. Cơ Ý Cữu đành phải đưa thái tử Cơ Qua đến Trịnh làm con tin. Để giữ thể diện cho Cơ Ý Cữu các quần thần đưa ra kế sách trao đổi con tin, con trai của Trịnh Trang Công cũng phải đến Lạc Ấp làm con tin. Họ thông báo với dân chúng và các chư hầu thái tử nước Chu sang nước Trịnh học tập.

Từ đó có thể thấy, sau khi Cơ Ý Cữu dời đô, thế lực vương thất triều Chu đã suy tàn, vua Chu trên danh nghĩa là thiên tử, thực tế chỉ là bù nhìn mà thôi.

Năm 720 TCN, ông ta bị bệnh chết, lập miếu đặt hiệu là Chu Bình Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Bình Vương: Cơ Ý Cữu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-binh-vuong-co-y-cuu/feed/ 0
Chu Hoàn Vương: Cơ Lâm https://ngaydacbiet.com/chu-hoan-vuong-co-lam/ https://ngaydacbiet.com/chu-hoan-vuong-co-lam/#respond Fri, 16 Jul 2021 14:46:24 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-hoan-vuong-co-lam/ Chu Hoàn Vương tên thật là Cơ Lâm, là cháu của Chu Bình Vương, kế vị sau khi Bình Vương chết. Trị vì 23 năm, bị bệnh chết, táng trên núi Hoàn Dương huyện Mãnh Trì tỉnh Hà Nam. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 697 TCN * Cơ Lâm là con trai của […]

Bài viết Chu Hoàn Vương: Cơ Lâm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Hoàn Vương tên thật là Cơ Lâm, là cháu của Chu Bình Vương, kế vị sau khi Bình Vương chết. Trị vì 23 năm, bị bệnh chết, táng trên núi Hoàn Dương huyện Mãnh Trì tỉnh Hà Nam.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 697 TCN

* Cơ Lâm là con trai của Cơ Thế. Bình Vương bị ốm chết, thái tử Cơ Qua làm con tin ở nước Trịnh. Trịnh Bá và Chu Công Mặc Kiên đến nước Trịnh đón Cơ Qua về kế vị. Cơ Qua trên đường vì đau thương quá độ, về triều ốm chết (?). Cơ Lâm được Trịnh Bá và Chu Công Mặc Kiên lập làm vua.

Thời kỳ Cơ Lâm trị vì, do Trịnh Bá có công giúp ông ta làm vua, vì thế đã cho nước Trịnh phần đất ở Ôn nằm ở phía Nam sông Tất Thủy và bờ Bắc sông Hoàng Hà, cương vực của Vương triều Chu lại thu hẹp lại.

Trước đây, Chư hầu chết, con của Chư hầu lên kế vị và sau khi chịu tang xong, cần phải đến đô thành tiếp nhận sắc phong của thiên tử, để có địa vị hợp pháp. Năm 712 TCN, Lỗ Hoàn Công mưu hại giết anh trai là Ẩn Công, tự lập làm quốc quân, không tới kinh thành xin nhận sắc phong của thiên tử. Từ đó chế độ nhận sắc phong do thiên tử ban bị phá bỏ.

Năm 706 TCN, nước Sở dùng vũ lực đuổi quốc quân của nước Tùy, muốn quốc vương nước Tùy tới chỗ Hoàn Vương đề nghị nâng cao cấp bậc cho nước Sở. Cơ Lâm không đồng ý, quốc vương nước Sở là Hùng Thông sau khi thoái mạ Cơ Lâm một trận, tự mình đề cao đẳng cấp, và đổi tên là Sở Vũ Vương. Cơ Lâm nhận được tin này, tức giận vô cùng, nhưng cũng không làm gì được.

Sau khi Cơ Lâm kế vị, Trịnh Trang Công vẫn tiếp tục chuyên quyền ở triều Chu. Cơ Lâm không cam tâm chịu sự khống chế của ông ta, liền đuổi Trịnh Trang Công về nước Trịnh. Sau khi về nước, Trịnh Trang Công càng gây rắc rối, làm loạn an ninh của triều Chu, quan hệ của hai bên ngày càng căng thẳng. Không lâu sau, Trịnh Trang Công giả truyền thánh chỉ của Cơ Lâm, mang quân đi đánh Tống. Cơ Lâm tức giận, dứt khoát bãi bỏ chức vụ của ông ta. Trịnh Trang Công cũng không vừa, 5 năm liền không đến triều đình yết kiến, tỏ rõ sự coi thường Cơ Lâm. Cơ Lâm phẫn nộ vô cùng bỏ ngoài tai lời khuyên của quân thần, đích thân mang quân đi đánh Trịnh Trang Công. Trịnh Trang Công cũng xuất binh mã nghênh chiến. Hai bên gặp nhau ở đất Trường Cát; Cơ Lâm nóng lòng chiến thắng, sai người ra chửi bới khiêu chiến. Trịnh Trang Công bố trí thế trận, án binh bất động. Quân Chu chửi đến buổi chiều vẫn không thấy quân Trịnh ra đánh, liền buông lỏng phòng ngừa. Quân Trịnh nhân cơ hội đó thừa thắng xông ra. Quân Chu không kịp trở tay bị giết rất nhiều. Cơ Lâm đành phải lui quân, còn mình ở lại chặn hậu. Tướng quân nước Trịnh là Chúc Đan bắn tên vào vai trái của Cơ Lâm, nhưng do Cơ Lâm mặc áo giáp bảo vệ nên vết thương không nghiêm trọng. Trịnh Trang Vương thấy cho Cơ Lâm một bài học như vậy là đủ lo sợ bộ hạ của mình giết chết Cơ Lâm, làm vậy sẽ bất lợi cho địa vị của ông ta. Trịnh Trang Vương vội vàng ra lệnh thu quân để lối thoát cho Cơ Lâm quay về triều.

Sau chuyện này, Trịnh Trang Công giả vờ ăn năn hối lỗi, sai hạ thần đến nhận tội với Cơ Lâm, nói rõ đấy chỉ là phòng vệ, không ngờ bộ hạ của mình lại vi phạm kỷ luật, làm tổn thương đến thiên tử. Cơ Lâm không còn cách gì đành phải tuyên bố miễn tội cho Trịnh Trang Công. Cuộc chiến ở Trường Cát đã làm Cơ Lâm mất mặt, từ đó các nước chư hầu ngày càng coi thường Cơ Lâm.

Tháng 3 năm 697 TCN, Cơ Lâm bị ốm nặng, ông ta truyền gọi Chu Công Hắc Kiên vào triều gặp mặt nói: “Làm theo tông pháp của tổ tiên ta đã lập con trưởng là Cơ Đà làm thái tử. Nhưng ta vốn yêu quý con thứ là Cơ Khắc. Hôm nay, ta sẽ giao Cơ Khắc cho ngươi, nếu sau này Cơ Đà chết, ngươi hãy lập Cơ Khắc làm vua. Ngươi nhất định phải hoàn thành tốt nhiệm vụ này”.

Không lâu sau, Cơ Lâm chết. Sau khi ông ta chết, lập miếu đặt hiệu là Chu Hoàn Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Hoàn Vương: Cơ Lâm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-hoan-vuong-co-lam/feed/ 0
Chu Định Vương: Cơ Du https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-du/ https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-du/#respond Fri, 16 Jul 2021 14:16:16 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-du/ Chu Định Vương tên thật là Cơ Du là con của Chu Khuông Vương, kế vị sau khi Khuông Vương chết, trị vì 21 năm. Tháng 11/586 TCN bị ốm chết, mai táng ở đâu không rõ. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 586 TCN * Thời gian Cơ Du trị vì, triều Chu […]

Bài viết Chu Định Vương: Cơ Du đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Định Vương tên thật là Cơ Du là con của Chu Khuông Vương, kế vị sau khi Khuông Vương chết, trị vì 21 năm. Tháng 11/586 TCN bị ốm chết, mai táng ở đâu không rõ.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 586 TCN

* Thời gian Cơ Du trị vì, triều Chu cũng không có gì xảy ra nên cũng không cần kể.

Lúc này, nước Sở dưới sự trị vì của Sở Trang Vương tình hình trong nước rất ổn định kinh tế giàu mạnh. Sở Trang Vương trong 3 năm đầu kế vị, không lo lắng việc nước, cuộc sống ngập sâu vào ăn chơi trụy lạc. Sau đó nghe lời khuyên giải của các chư thần, Sở Trang Vương dần dần tỉnh ngộ. Trang Vương bắt đầu chỉnh đốn triều đình thực hiện cải cách, mở rộng quân đội. Từ đó làm cho đất nước ngày một hưng thịnh, đi tiêu diệt một số nước nhỏ.

Mùa xuân năm 613 TCN, Sở Trang Vương đem quân đi chinh phục tộc Nhung sống ở đất Hỗn (nay thuộc phía Bắc huyện Tung tỉnh Hà Nam). Sau chuyện này, quân Sở còn tổ chức duyệt binh ở biên giới nước Chu để tỏ rõ uy lực, khiến Cơ Du lo lắng sai đại thần Vương Tôn Mãn đi hỏi thăm tình hình quân Sở. Sở Trang Vương còn hỏi thăm Vương Tôn Mãn về trọng lượng của 9 cái đình đặt trong tông miếu của đô thành nhà Chu. 9 cái đình đó là tượng trưng cho quyền lực của thiên tử. Hỏi thăm trọng lượng của 9 cái đình đồng nghĩa với chuyện nhòm ngó đến quyền lực địa vị của thiên tử. Qua một hồi nói chuyện thương lượng, Sở Trang Vương mới lui quân đi. Câu chuyện này trong sách sử gọi là “Hỏi thăm chiếc đình ở Trung Nguyên”. Sau khi dẹp xong nội chiến Sở Trang Vương mang quân đi thu phục các nước nhỏ và hàng phục nước Trần, nước Tống.

Năm 597 TCN trong trận chiến ở vùng đất Tất (nay thuộc phía Đông thành phố Trịnh Châu tỉnh Hà Nam). Sở Trang Vương chiếm giữ được 600 chiến xa của nước Tấn và ông ta được tôn làm bá chủ (là một trong 5 bá chủ thời Xuân Thu).

Cùng lúc đó, Triệu Kiên (người nước Tấn) bị ốm chết, con trai là Triệu Sóc nên thay quyền, phụ giúp Tấn Cảnh Công. Sủng thần của Tấn Linh Công là Đồ Thiết Yếu vì muốn báo thù cho Tấn Linh Công nên đã kích động xúi giục các tướng sĩ “Triệu Kiên là người phạm trọng tội, nếu như con trai của ông ta là đại thần của triều đình, thì làm sao chúng ta có thể hài lòng được” và mang quân lính bao vây nhà Triệu Sóc, giết chết cả nhà Triệu Sóc và giết Triệu Sóc. Vợ của Triệu Sóc chị gái của Tần Thành Công, tên là Trang Cơ được gặp may miễn tội chết. Lúc này Trang Cơ đang mang thai, ẩn trốn trong cung của Tần Cảnh Công, không lâu sau Trang Cơ sinh được một bé trai, biết tin Đồ Thiết Yếu vào cung muốn giết đứa bé. Trang Cơ vội giấu đứa trẻ dưới hông và bảo đứa trẻ: “Nếu hôm nay trời muốn diệt nhà họ Triệu thì con khóc, nếu trời không muốn diệt nhà họ Triệu thì con đừng khóc”. Đứa bé quả nhiên không khóc, cuối cùng cũng thoát được bàn tay của Đồ Thiết Yếu. Triệu Sóc có một môn khách tên là Chử Cửu, Chử Cửu hỏi bạn của Triệu Sóc là Trình Anh: “Nuôi nấng đứa trẻ mồ côi này hay giết nó đi, hai điều đó đều nào là dễ”. Trình Anh trả lời: “Giết thì dễ, nuôi dưỡng trưởng thành mới là điều khó”. Chử Cửu nói: “Tướng quân chịu trách nhiệm làm chuyện khó, tôi chịu trách nhiệm làm chuyện dễ, để tôi mang cái chết đi đã”. Chử Cửu mang con trai mình trốn lên núi, sau đó để Trình Anh đi báo với Đỗ Thiết Yếu, nói con trai của Triệu Sóc đang trốn trên núi. Đỗ Thiết Yếu vui mừng khôn xiết, lập tức sai người theo Trình Anh lên núi giết chết Chử Cửu và con trai Chử Cửu. Như vậy, đứa con của Triệu Sóc được an toàn. Trịnh anh mang đứa bé trốn vào trong núi, đặt tên cho nó là Triệu Vũ.

Tháng 11 năm 586 TCN, Cơ Du bị ốm chết. Sau khi Cơ Du chết, lập miếu đặt hiếu là Chu Định Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Định Vương: Cơ Du đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-du/feed/ 0
Chu Trang Vương: Cơ Đà https://ngaydacbiet.com/chu-trang-vuong-co-da/ https://ngaydacbiet.com/chu-trang-vuong-co-da/#respond Fri, 16 Jul 2021 13:52:40 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-trang-vuong-co-da/ Chu Trang Vương tên thật là Cơ Đà, là con trai cả của Chu Hoàn Vương, kế vị sau khi Hoàn Vương chết. Trị vì 15 năm, mai táng ở đâu không rõ. Nam sinh, năm mất: ? TCN – 682 TCN * Năm thứ ba, sau khi Cơ Đà lên kế vị, (694 TCN) […]

Bài viết Chu Trang Vương: Cơ Đà đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Trang Vương tên thật là Cơ Đà, là con trai cả của Chu Hoàn Vương, kế vị sau khi Hoàn Vương chết. Trị vì 15 năm, mai táng ở đâu không rõ.

Nam sinh, năm mất: ? TCN – 682 TCN

* Năm thứ ba, sau khi Cơ Đà lên kế vị, (694 TCN) Chu Công Hắc Kiên tuân theo lời di huấn của Hoàn Công trước khi chết, đã nghĩ mưu giết chết Cơ Đà để lập Cơ Khắc làm thiên tử. Tân Bá khuyên Chu Công Hắc Kiên: “Con trưởng và con thứ khác nhau rõ ràng, phế trưởng lập thứ, tất sẽ là đầu mối dẫn đến nội chiến. Chu Công Hắc Kiên không nghe lời nhất định tìm cách giết hại Cơ Đà. Nhưng Tân Bá đã tấu trình cho Cơ Đà biết ý định của Chu Công Hắc Kiên. Cơ Đà liền sai người giết Chu Công Hắc Kiên. Về phần Cơ Khắc thấy sự việc bị bại lộ vội vàng trốn chạy tới nước Yên. Câu chuyện này trong sử gọi là: “Cuộc tạo phản của Cơ Khắc”.

Mùa hè năm 693 TCN, để lôi kéo vua Tề, Cơ Đà đã gả con gái cho vua Tề. Cơ Đà nhờ Lỗ Hoàn Công làm mối vì vậy sai Đôn Bá Tiên đưa công chúa tới nước Lỗ cư trú tạm thời. Mùa đông năm đó, Cơ Đà sai Vinh Quyền mang chiếu chỉ tới Lỗ đòi giết anh trai của Lỗ Hoàn Công và lập Lỗ Hoàn Công lên ngôi. Lỗ Hoàn Công lập tức đưa công chúa Chu tới nước Tề.

Trong thời gian Cơ Đà trị vì, vào năm 685 TCN, nước Tề trải qua nhiều cuộc nội chiến, công tử Tiểu Bạch được lập làm vua, và gọi là Tề Hoàn Công. Tiểu Bạch không tính toán tư thù, đã tiếp đón Quản Trọng từ nước Lỗ tới phong Quản Trọng làm tể tướng (mặc dù trước kia Quản Trọng, mấy lần suýt bắn chết Tiểu Bạch). Dưới sự giúp đỡ của Quản Trọng, nước Tề tiến hành sửa chữa nền kinh tế, chính trị… dần dần đất nước hưng thịnh. Năm thứ hai, vì lập vua Lỗ từng cản trở việc lên ngôi, nên Tề Hoàn Công mang quân đánh nước Lỗ bị quân Lỗ chặn lại ở đất Trường Thược (nay là vùng Bất Tường). Lỗ Trang Công thấy quân địch mạnh như vũ bão, nóng lòng muốn chỉ huy quân lính công kích, nhưng Tào Quý khuyên giải ông ta, Lỗ Trạng Công nghe lời khuyên và đợi chờ cơ hội. Quân Tề ỷ vào sức mạnh liên tiếp tấn công, đều không giành được chiến thắng, lúc này khí thế nhụt đi rất nhiều, sức lực cạn kiệt, lòng quân dao động. Tào Quý sử dụng chiến thuật “Địch mệt mỏi thì ta đánh”, phát động binh lính đánh một trận và dẹp tan quân Tề. Trong lịch sử trận chiến này được lượt vào cuộc chiến “yếu thắng mạnh” và gọi là cuộc chiến trên đất Trường Thược của hai nước Tề- Lỗ”.

Vào những năm cuối đời, Cơ Đà rất yêu quý thiếu tử Tử Đồi, muốn lập Đồi làm thái tử, nhưng ý định của Cơ Đà không thực hiện được, ngược lại còn dẫn đến cuộc tạo phản của Tử Đồi.

Tháng 10/682 TCN, Cơ Đà bị bệnh chết. Sau khi Cơ Đà chết lập miếu đặt hiệu là Chu Trang Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Trang Vương: Cơ Đà đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-trang-vuong-co-da/feed/ 0
Chu Ly Vương: Cơ Hồ Tề https://ngaydacbiet.com/chu-ly-vuong-co-ho-te/ https://ngaydacbiet.com/chu-ly-vuong-co-ho-te/#respond Fri, 16 Jul 2021 12:47:01 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-ly-vuong-co-ho-te/ Chu Ly Vương tên thật là Cơ Hồ Tề, là con trai của Chu Trang Vương, kế vị sau khi Trang Vương chết, trị vì được 5 năm, mai táng ở đâu không rõ. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 677 TCN *Thời Trang Vương trị vì, Cơ Hồ Tề được lập làm thái […]

Bài viết Chu Ly Vương: Cơ Hồ Tề đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Ly Vương tên thật là Cơ Hồ Tề, là con trai của Chu Trang Vương, kế vị sau khi Trang Vương chết, trị vì được 5 năm, mai táng ở đâu không rõ.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 677 TCN

*Thời Trang Vương trị vì, Cơ Hồ Tề được lập làm thái tử. Năm 681 TCN Cơ Hồ Tề lên ngôi, Tề Hoàn Công dưới sự giúp đỡ của Quản Trọng đã làm cho nước Tề “quân mạnh nước giàu”. Với danh nghĩa giúp đỡ vua Chu tranh bá với thiên hạ, Tề Hoàn Công nghe lời khuyên của Quản Trọng đã lấy khẩu hiệu “tôn vương diệt di”, tức là tôn trọng vua Chu, sẽ chinh phạt các dân tộc thiểu số giúp vua Chu, đồng thời sai sứ thần tới chúc mừng Cơ Hồ Tề đăng quan ngôi vị mới. Cơ Hồ Tề thấy nước Tề cung kính như vậy rất hài lòng, lập tức triệu tập các sứ giả để thừa nhận Tống Hoàng Công làm vua nước Tống và sai Tề Hoàn Công đến nước Tống thông báo. Tề Hoàn Công mở đại hội sứ giả ở vùng Bắc Hoạt của nước Tề (nay thuộc phía Bắc huyện Đông A tỉnh Sơn Tây) và Tề Hoàn Công được bầu làm minh chủ.

Mùa đông năm 681 TCN, Tề Hoàn Công lại thống lĩnh đại quân tiến đánh nước Lỗ, Lỗ Trang Công hoảng sợ phải đưa các điều kiện xin hàng. Vua của hai nước Lỗ, Tề hẹn gặp nhau ở đất Kha thuộc phạm vi nước Tề (nay thuộc thị trấn A thành phía Đông Bắc huyện Thọ Trương tỉnh Sơn Đông). Lúc hai người chuẩn bị uống máu ăn thề, đột nhiên tướng quân Tào Mạt (người bảo vệ Lỗ Trang Công) rút ra một thanh đoản kiếm ép buộc Tề Hoàn Công bắt trả lại những phần đất của nước Lỗ mà trước đây Tề Hoàn Công cướp đi. Tề Hoàn Công buộc lòng phải chấp nhận lời đề nghị đó để thoát thân. Sau chuyện này, Tề Hoàn Công phẫn nộ vô cùng, đòi giết chết Tào Mạt. Quản Trọng khuyên giải Tề Hoàn Công “Chuyện thất tín, giết người, là một điều cấm kỵ của người quân tử, đồng thời sẽ làm mất đi sự tin tưởng của các chư hầu, xin bệ hạ hãy suy xét lại”. Tề Hoàn Công nghe lời Quản Trọng mang trả hết đất cho nước Lỗ. Chuyện này khiến các chư hầu đều khâm phục Tề Hoàn Công, liên tiếp đến cầu cạnh nước Tề.

Năm 679 TCN, Tề Hoàn Công mở đại hội ở đất Quyên (thuộc lãnh thổ nước Vệ) (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), đến tham gia đại hội có các nước như: Lỗ Trịnh, Tống Vệ, Trần… minh chủ Tề Hoàn Công chính thức trở thành bá vương đầu tiên trong thời kỳ Xuân Thu.

Năm 677 TCN, Cơ Hồ Tề bị bệnh chết, sau khi chết lập miếu đặt hiệu Chu Hỷ Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Ly Vương: Cơ Hồ Tề đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-ly-vuong-co-ho-te/feed/ 0
Chu Huệ Vương: Cơ Lãng https://ngaydacbiet.com/chu-hue-vuong-co-lang/ https://ngaydacbiet.com/chu-hue-vuong-co-lang/#respond Fri, 16 Jul 2021 11:15:25 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-hue-vuong-co-lang/ Chu Huệ Vương tên thật là Cơ Lãng. Ông là con trai của Chu Ly Vương, kế vị sau khi Chu Ly Vương chết, trị vì 25 năm, mai táng ở đâu không rõ. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 652 TCN * Mùa thu năm thứ hai (675 TCN) sau khi Cơ Lãng […]

Bài viết Chu Huệ Vương: Cơ Lãng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Huệ Vương tên thật là Cơ Lãng. Ông là con trai của Chu Ly Vương, kế vị sau khi Chu Ly Vương chết, trị vì 25 năm, mai táng ở đâu không rõ.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 652 TCN

* Mùa thu năm thứ hai (675 TCN) sau khi Cơ Lãng lên ngôi, 5 đại phu là Vi Quốc, Biên Bá, Tử Cầm, Chúc Quỵ, Hứa Phụ do nhận lời ủy thác của Trang Vương lúc còn sống là phò tá Tử Đồi (con thứ của Trang Vương) lên ngôi, nên cũng không bằng lòng với việc Cơ Lãng lên ngôi. Họ liên kết với Phỏng Thị, ủng hộ Tử Đồi làm phản, tiến đánh Cơ Lãng, cuối cùng bè cánh của Tử Đồi bị đánh bại chạy biến hết. Tử Đồi chạy đến đất Ôn (nay thuộc phía Tây Nam tỉnh Hà Nam), rồi cùng với Phỏng Thị lại chạy đến nước Vệ. Vệ Huệ Công hận Chu Vương đã bắt giữ con trai mình là Kiềm Mâu trong cuộc chinh chiến, nên Vệ Công liên kết với nước Yên giúp đỡ Tử Đồi.

Mùa đông năm 675, nước Vệ và nước Yên xuất binh đi đánh Cơ Lãng và lập Tử Đồi làm thiên tử. Trịnh Vệ Công đứng ra giảng hòa cuộc hỗn chiến của vương thất nhà Chu nhưng không thành công. Trạng Phụ của vua nước Yên là Xuân Phù đã phải sắp xếp cho Cơ Lãng sống ở đô thành Nguyệt của nước Trịnh (nay thuộc Hà Nam) và phải mang những đồ dùng của vương thất chuyển đến đô thành Nguyệt cho Cơ Lãng dùng.

Mùa xuân năm 673 TCN, Trịnh Lệ Công và Quắc Công gặp mặt nhau ở đất Nhị (nay thuộc huyện Mật tỉnh Hà Nam) cùng mang quân đi đánh Tử Đồi. Liên quân Trịnh-Quắc nhanh chóng tiến công vào đô thành, Tử Đồi và 5 đại phu đang uống rượu trở tay không kịp, bị quân lính giết chết. Trịnh Lệ Công và Quắc Công đón Cơ Lãng trở về đô thành, trả lại ngôi vị thiên tử cho Cơ Lãng. Cuộc nội chiến này trong lịch sử gọi là “Cuộc làm phản của Tử Đồi”.

Để cảm ơn sự giúp đỡ của hai nước Trịnh, Quắc nên Cơ Lãng đã cho nước Quắc vùng đất Tửu Tuyền (nay thuộc 1 dải phía đông tỉnh Thiểm Tây), đem cho nước Trịnh phía đông của vùng Hổ Lao (nay thuộc phía Tây Bắc thành phố Vinh Dương tỉnh Hà Nam). Như vậy cuộc chiến coi như tạm yên ổn, đất đai của vương triều Chu lại bị thu hẹp lại. Trong thời gian Cơ Lãng trị vì, nước Tề liên tiếp đưa quân đi chinh phạt khắp nơi, thu phục các nước nhỏ, mở rộng lực lượng.

Năm 670 TCN, quân Tề diệt nước Quách (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), Tề Hoàn Công hỏi các phụ lão sống ở lãnh thổ nước Quách: “Nước Quách làm sao bị diệt vong như vậy?”.

Các phụ lão trả lời: “Bởi vì vua của chúng tôi yêu mến người hiền tài mà không hận người xấu bụng”.

Tề Hoàn Công lại hỏi “Theo lời nói của các vị thì vua của các vị là một người tài đức, tại sao lại để mất nước như vậy?”.

Các phụ lão trả lời: “Vua yêu người hiền mà không biết trọng dụng, ghét người xấu mà không biết loại bỏ, vì vậy dẫn đến mất nước”.

Lúc đó, Khánh Phụ (con của Lỗ Hoàn Công) đã giết vua Tử Thuyền, Mẫn Công, gây ra cuộc đại loạn ở nước Lỗ. Những người sống thời đó nói “Khánh Phụ không chết, nước Lỗ khó lòng giữ được”. Lỗ Hỉ Công sau khi lên ngôi cho giam giữ Khánh Phụ ở Cử Quốc (nay thuộc huyện Cứ tỉnh Sơn Đông). Khánh Phụ biết tội trạng của mình không thể trốn chạy, đành tự tử ở đất Cử Quốc, cuộc nội chiến của nước Lỗ cũng tạm thời dẹp yên. Lúc đó, Vệ Ý Công (vua của nước Vệ) rất thích nuôi chim hạc, Vệ Ý Công thích nhất chim hạc để trang trí, ăn chơi, hưởng lạc, nhân dân đều oán thán.

Tháng 12/660 TCN, quân Nhang tiến công nước Vệ, Vệ Ý Công dân quân chặn đánh ở Vinh Tắc (nay thuộc tỉnh Đông Bắc huyện Vinh Dương tỉnh Hà Nam). Trước khi ra trận các tướng sĩ còn oán thán: “bình thưởng đại vương hậu đãi chim hạc, bây giờ sao không để chim hạc ra trận đi”, lòng quân rối loạn bị đánh đại bại, Vệ Ý Công bị hỗn quân giết chết trở thành tấm gương cho những người thích chơi bời lêu lổng. Vào những năm cuối đời của Cơ Lãng, sủng ái Huệ Hậu (Công chúa nước Trần) đòi phế bỏ thái tử Trịnh, lập con của Huệ Hậu là Tử Đế làm thái tử.

Mùa hè năm 655 TCN, Tề Hoàn Công mở đại hội ở Đô Chỉ (thuộc lãnh thổ nước Vệ) (nay là phía Đông Nam huyện Thái tỉnh Hà Nam) sai mời thái tử Trịnh mà những chư hầu như: Tống Hoàn Công, Lỗ Công, Trần Tuyên Công, Vệ Văn Công, Trịnh Văn Công, Hứa Công. Tào Chiêu Công… tuyên bố giúp đỡ thái tử Trịnh kế vị ngôi thiên tử. Cơ Lãng rất tức giận, liền xúi giục Trịnh Văn Công bội ước, sai Trịnh Văn Công đi liên lạc với nước Sở, và sai người đi đến nước Tấn liên lạc, dự định tập hợp liên minh 4 nước: Chu, Trịnh, Sở, Tấn để đối phó với nước Tề. Nước Tề cho người đi khống chế, sai quân đi đánh Trịnh, làm cho nước Trịnh phản Chu quay về với Tề, vì vậy kế hoạch của Cơ Lãng bị phá bỏ.

Tháng 12/652 TCN, Cơ Lãng ốm chết, sau khi ông ta chết lập triều miếu đặt hiệu là Chu Huệ Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Huệ Vương: Cơ Lãng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-hue-vuong-co-lang/feed/ 0
Chu Tương Vương: Cơ Trịnh https://ngaydacbiet.com/chu-tuong-vuong-co-trinh/ https://ngaydacbiet.com/chu-tuong-vuong-co-trinh/#respond Fri, 16 Jul 2021 10:03:27 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-tuong-vuong-co-trinh/ Sau khi Chu Huệ Vương chết, Cơ Trịnh lo lắng Tử Đế tranh chấp ngôi vị nên bí mật phát tang và sai người tới Tề Hoàn Công nhờ giúp đỡ. Tề Hoàn Công lập tức triệu tập đại hội sứ giả ở đất Thao (phía Tây huyện Quyên Thánh tỉnh Sơn Đông), tuyên bố […]

Bài viết Chu Tương Vương: Cơ Trịnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Sau khi Chu Huệ Vương chết, Cơ Trịnh lo lắng Tử Đế tranh chấp ngôi vị nên bí mật phát tang và sai người tới Tề Hoàn Công nhờ giúp đỡ. Tề Hoàn Công lập tức triệu tập đại hội sứ giả ở đất Thao (phía Tây huyện Quyên Thánh tỉnh Sơn Đông), tuyên bố giúp Cơ Trịnh nên ngôi Thiên Tử. Sau khi Cơ Trịnh nên ngôi mới dám tuyên bố cái chết của Huệ Vương.

Tử Đế không can tâm thất bại, từ năm 648 TCN trở đi – vài lần cùng quân Nhung đi đánh vua Chu nhưng đều thất bại.

Năm 639 TCN, Cơ Trịnh phát hiện vương hậu Quy Thị lén lút cấu kết với Tử Đế. Cơ Trịnh lập tức phế truất vương hậu. Nhận được tin này, Tử Đế lại dẫn quân Nhung đi đánh nước Chu, chiếm lĩnh được đô thành. Cơ Trịnh vội vàng chạy trốn và ẩn trốn ở vùng đất Tị của nước Trịnh (nay thuộc huyện Tương Thành tỉnh Hà Nam) và đi cầu cứu các nước chư hầu.

Vào năm 635 TCN, Tấn Văn Công mượn danh nghĩa thiên tử xuất quân đi đánh Tử Đề lúc này đang cư trú tại đất Ôn và bắt giữ được Tử Đề, sau đó đón Cơ Trịnh quay về đô thành, áp giải Tử Đề về cung và khép vào tội chết, bình định được nội chiến. Cuộc nội chiến này trong sách gọi là “cuộc tạo phản của Tử Đề”.

Cơ Trịnh mở yến tiệc chiêu đãi Tấn Văn Công. Tấn Văn Công xin Cơ Trịnh cho hưởng một điều kiện (Nếu sau này Tấn Văn Công chết cho ông ta hưởng nghi lễ mai táng như một thiên tử), nhưng Cơ Trịnh đã khôn khéo chối từ điều kiện đó và phong cho Tấn Văn Công 4 vùng đất: Dương, Phàn, Ôn, Nguyên và Toàn Mao. Ba năm trước, hai nước Tần, Tấn đã tự tiện dời một chi nhánh của tộc Nhung đến vùng Y Xuyên thuộc phạm vi đất nhà Chu (nay thuộc Y Hà ở phía Nam thành phố Lạc Dương) chiếm cứ vùng đất này. Như vậy, địa bàn của nhà Chu chỉ còn 100 dặm.

Năm 651 TCN thời gian Cơ Trịnh trị vì, Tề Hoàn Công cho mở đại hội liên minh ở đất Đặng Khâu của nước Tống (nay thuộc phía Đông Bắc huyện Lan Khải tỉnh Hà Nam), đến dự đại hội có Lỗ Hỉ Công, Tống Tương Công, Vệ Văn Công, Trịnh Văn Công, Hứa Hỉ Công, Tào Cung Cảng… họ đều nhất trí bầu Tề Hoàn Công làm minh chủ. Để cảm ơn sự giúp đỡ của Tề Hoàn Công, Cơ Trịnh đã sai Chu Công Tề Khổng tới tham gia đại hội và mang rượu thịt mà thiên tử Chu đã cúng tế tổ tiên tặng cho Tề Hoàn Công, và bảo Tề Hoàn Công không cần có lễ vật tạ ơn, Cơ Trịnh làm vậy để tỏ ý công nhận chức vị bá chủ của Tề Hoàn Công. Đại hội này trong sách sử gọi là “Đại hội ở Đặng Khâu”, cuộc đại hội này làm cho tiếng tăm của Tề Hoàn Công vang xa.

6 năm sau Tể tướng Quản Trọng bị bệnh và chết, hai năm sau nữa Tề Hoàn Công cũng ốm chết, 5 người con của Tề Hoàn Công tranh giành nhau kế vị, nội chiến xảy ra liên miên, sức lực trong nước suy yếu dần, vì vậy nước Tế mất đi địa vị bá chủ. Người tiếp nhận địa vị bá chủ là Tống Tương Công, ông ta là Chư hầu chỉ thích lý luận suông về nhân nghĩa đạo đức.

Tháng 11/638 TCN, nước Sở tấn công nước Tống, Tống Tương Công dẫn đầu đại quân chặn đánh ở vùng đất Hà (nay thuộc Hà Nam) Tống Tương Công bị thua trận.

Tháng 4/632 TCN, Tấn Văn Công thống lĩnh quân đội đi đánh quân Sở ở đất Bộc (nay thuộc huyện Bộc tỉnh Hà Nam), chiến thắng lừng lẫy, Tấn Văn Công mang 1000 tù binh nước Sở và 100 chiến xe cống cho Cơ Trịnh, Cơ Trịnh tặng lại cho Tấn Văn Công 100 chiếc cung màu hồng và 1000 chiếc cung màu đen, đồng thời còn bằng lòng cho Tấn Văn Công đi chinh phạt các nước Chư hầu khác.

Mùa đông năm 632 TCN, Tấn Văn Công mở đại hội chư hầu ở đất Tiền Thổ thuộc địa phận nước Trịnh (nay thuộc phía Tây Nam Huyện Nguyên Dương tỉnh Hà Nam), Tề Văn Công muốn tăng thêm danh vọng và tiếng tăm, nên âm thầm sai người đi mời Cơ Trịnh tới tham gia đại hội. Cơ Trịnh thấy đường đường là đấng thiên tử vậy mà đi tham gia đại hội, quả thật rất khó xử, nhưng Cơ Trịnh rất sợ uy lực của nước Tần, suy đi tính lại cuối cùng Cơ Trịnh phải tới tham gia đại hội. Về sau Khổng Tử viết về thời Xuân Thu đã viết về chuyện này là “Thiên Tử đi săn ở Hà Dương”, làm vậy cốt để giữ thể diện cho vua Chu. Tấn Văn Công trở thành bá chủ uy hiếp Trung Nguyên.

Tiếp nhận chức vị bá chủ của Tấn Công là Tần Mục Công. Tần Mục Công trọng dụng những người hiền tài như Bách Lí Hề, tăng cường sức mạnh trong nước. Vào năm 624 TCN, Tần Mục Công đã mang quân chinh phạt nước Tấn giành được thắng lợi, uy danh vang lừng, hơn 20 nước nhỏ thuộc tộc Nhung và các bộ lạc đều quy thuận nước Tần, Tần Mục Công được tôn là bá chủ của tộc Nhung ở miền Tây. Thế lực của nước Tần rất mạnh và phát triển xuống phía Đông được hơn 1000 dặm. Cơ Trịnh sai sứ giả mang 12 chiếc trống đồng tặng vua Tần, điều đó cho thấy đã công nhận địa vị bá chủ của Tần Mục Công.

Tháng 8/619 TCN, Cơ Trịnh ốm chết, sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Tương Vương

 

 

 

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Tương Vương: Cơ Trịnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-tuong-vuong-co-trinh/feed/ 0
Chu Khoảng Vương: Cơ Nhậm Cự https://ngaydacbiet.com/chu-khoang-vuong-co-nham-cu/ https://ngaydacbiet.com/chu-khoang-vuong-co-nham-cu/#respond Fri, 16 Jul 2021 08:53:22 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-khoang-vuong-co-nham-cu/ Chu Khoảnh Vương tên thật là Cơ Nhậm Cự, là con của Chu Tương Vương, kế vị sau khi Tương Vương chết. Trị vì 6 năm, bị bệnh chết, mai táng ở đâu không rõ. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 613 TCN * Khi Cơ Nhậm Cự lên kế vị, nền tài chính […]

Bài viết Chu Khoảng Vương: Cơ Nhậm Cự đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Khoảnh Vương tên thật là Cơ Nhậm Cự, là con của Chu Tương Vương, kế vị sau khi Tương Vương chết. Trị vì 6 năm, bị bệnh chết, mai táng ở đâu không rõ.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 613 TCN

* Khi Cơ Nhậm Cự lên kế vị, nền tài chính của vương triều rất túng bẩn, tiền làm tang cho Tương Vương cũng không đủ, Cơ Nhậm Cự đành phải sai Cơ Bá đi tới nước Lỗ vay tiền. Vua Lỗ sai Thúc Tôn Đắc Cự mang tiền tới đô thành, mới có tiền an táng cho Tương Vương. Thời gian đó là 14 tháng sau cái chết của Tương Vương.

Thời gian Cơ Nhậm Cự trị vì có chư hầu của nước Trâu (nay là phía Đông nam huyện Trâu tỉnh Sơn Đông) là Trâu Văn Công. Năm 614 TCN, Trâu Văn Công chuẩn bị dời đô đến Dịch Sơn (nay thuộc phía nam huyện Trâu tỉnh Sơn Đông). Các cận thần khuyên Trâu Văn Công “việc dời đô có lợi cho dân, nhưng lại có hại cho đại vương, sẽ làm tổn hại tới tuổi thọ”. Thời đó, người ta rất tin vào bói toán, đều cản trở việc dời đô. Trâu Văn Công nói: “Quân vương phải lấy dân làm gốc và quân vương do dân lập nên để thay họ tìm kế mưu sinh, nếu như việc dời đô là có lợi cho dân thì chuyện đó nên làm”. Trâu Văn Công nhất định dời đô đến Dịch Sơn. Quả thật không lâu sau Trâu Văn Công bị bệnh chết, phù hợp với lời tiên đoán, mọi người đều ca ngợi công đức của Trâu Văn Công.

Mùa thu năm 613 TCN, Cơ Nhậm Cự ốm chết, sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Khoảng Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Khoảng Vương: Cơ Nhậm Cự đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-khoang-vuong-co-nham-cu/feed/ 0
Chu Khuông Vương: Cơ Ban https://ngaydacbiet.com/chu-khuong-vuong-co-ban/ https://ngaydacbiet.com/chu-khuong-vuong-co-ban/#respond Fri, 16 Jul 2021 07:33:13 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-khuong-vuong-co-ban/ Chu Khuông Vương tên thật là Cơ Ban, là con của Chu Khoảnh Vương, kế vị sau khi Khoảnh Vương chết, trị vị được 6 năm, bị bệnh chết, mai táng ở đâu không rõ. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 607 TCN * Thời Cơ Ban trị vì triều Chu không phát sinh […]

Bài viết Chu Khuông Vương: Cơ Ban đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Khuông Vương tên thật là Cơ Ban, là con của Chu Khoảnh Vương, kế vị sau khi Khoảnh Vương chết, trị vị được 6 năm, bị bệnh chết, mai táng ở đâu không rõ.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 607 TCN

* Thời Cơ Ban trị vì triều Chu không phát sinh chuyện gì nên không cần kể ra ở đây.

Thời đó quốc quân của nước Tấn là Tấn Linh Công, trong cung điện của Tấn Linh Công xảy ra câu chuyện Triệu Kiên, một câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử. Hóa ra, Tấn Linh Công là một người thích hưởng lạc, không chịu lo liệu quản lý quốc gia. Ông ta rất thích làm những điều ác độc, ông ta thường dùng cung tên bắn vào đầu người khác làm cho máu chảy ròng ròng thấy mọi người chạy đông chạy tây để ẩn nấp ông ta rất thích thú vô cùng.

Có một lần, đầu bếp không có món tay gấu rán để dâng cho ông ta ăn, Tấn Linh Công liền sai người giết chết đầu bếp, dùng chiếu đắp và sai cung nữ kéo đi. Đại thần chấp chính là Triệu Kiên nhiều lần khuyên giải ông ta nhất định không nghe, Tấn Linh Công liền sai võ sĩ Trừ Ni đi mưu sát Triệu Kiên. Trừ Ni đi đến nhà Triệu Kiên, nhìn thấy Triệu Kiên ngồi quỳ ở cửa phòng, mặc triều phục, đang phủ phục đội Tấn Linh Công thiết triều.

Thấy vậy Trừ Ni rất cảm động nói: “Đối với quân vương không quên sự tôn kính, là một người tốt thay dân điều hành mọi chuyện. Nếu giết Triệu Kiên thì có lỗi với muôn dân, nếu không giết thì Linh Công sẽ không bỏ qua cho mình. Cả hai cách đều không được, chi bằng tôi chọn cái chết”.

Trừ Ni treo cổ trên cây Hòe trong cung đình. Tấn Linh Công thấy việc không thành, giả vờ mời Triệu Kiên ăn yến tiệc và mai táng cho Trừ Ni, lại tìm kế giết Triệu Kiên, không ngờ Triệu Kiên biết chuyện tìm cách trốn đi. Về sau, em của Triệu Kiên là Triệu Xuyến giết Tấn Linh Công lúc đó Triệu Kiên mới dám quay về đô thành.

Tháng 10/607 TCN, Cơ Ban bị ốm chết. Sai khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Khuông Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Khuông Vương: Cơ Ban đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-khuong-vuong-co-ban/feed/ 0
Chu Giản Vương: Cơ Di https://ngaydacbiet.com/chu-gian-vuong-co-di/ https://ngaydacbiet.com/chu-gian-vuong-co-di/#respond Fri, 16 Jul 2021 04:43:24 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-gian-vuong-co-di/ Chu Giản Vương tên thật là Cơ Di, là con của Chu Định Vương, kế vị sau khi Định Vương chết. Trị vì 14 năm, bị ốm chết, mai táng ở đâu không rõ. Năm sinh, năm mất: ? TCN – 572 TCN * Thời Cơ Di trị vì, triều Chu không phát sinh chuyện […]

Bài viết Chu Giản Vương: Cơ Di đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Giản Vương tên thật là Cơ Di, là con của Chu Định Vương, kế vị sau khi Định Vương chết. Trị vì 14 năm, bị ốm chết, mai táng ở đâu không rõ.

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 572 TCN

* Thời Cơ Di trị vì, triều Chu không phát sinh chuyện gì, không cần kể ra.

Lúc này, Tấn Cảnh Công đã dẹp yên phản loạn sai người đi tìm Trình Anh và Triệu Vũ, còn cho phép Trình Anh mang quân đi giết Đỗ Thiết Yếu và cả nhà Đỗ Thiết Yếu để báo thù cho Triệu Vũ. Triệu Vũ sau khi trưởng thành lại kế nhiệm chức vụ của cha, làm một trọng thần của nước Tấn. Lúc này, Trình Anh từ biệt mọi người và nói với Triệu Vũ: “Điều khó trước đây cha nhận bây giờ đã hoàn thành, Cha chưa lấy cái chết để tỏ lòng trung thực bởi vì muốn nuôi dưỡng con, giữ gìn giọt máu cho nhà họ Triệu. Bây giờ thù lớn con đã trả và con còn kế nghiệp được cha đẻ của con. Cha đã báo đáp được ân huệ của cha con và hoàn thành tâm nguyện của Chú Chử Cửu”. Nói xong ông tự vẫn. Triệu Vũ rất đau khổ, và chịu tang 3 năm, mỗi năm vào 2 mùa xuân thu đều đến mộ cúng tế.

Thời đó, ngoài cuộc hỗn chiến giữa các nước Tấn, Sở, Tần, Tống, Trịnh, thì nước Ngô thuộc phía Đông Nam của nước Sở cũng hưng thịnh dần dần, vài lần đánh vào nước Sở và cũng được liệt vào cuộc hỗn chiến thời Xuân Thu.

Tháng 9/570 TCN, Cơ Di bị ốm chết, sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Giản Vương.

 

 

 

 

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Giản Vương: Cơ Di đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-gian-vuong-co-di/feed/ 0
Chu Linh Vương: Cơ Tiết Tâm https://ngaydacbiet.com/chu-linh-vuong-co-tiet-tam/ https://ngaydacbiet.com/chu-linh-vuong-co-tiet-tam/#respond Fri, 16 Jul 2021 02:01:23 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-linh-vuong-co-tiet-tam/ Chu Linh Vương tên thật là Cơ Tiết Tâm con của Chu Giản Vương, kế vị sau khi Giản Vương chết. Vì thương con nhỏ chết yểu nên đau khổ mà chết, mai táng ở núi Chu (nay là núi Ba Đình nước Tây Nam thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam), một chuyện khác […]

Bài viết Chu Linh Vương: Cơ Tiết Tâm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Linh Vương tên thật là Cơ Tiết Tâm con của Chu Giản Vương, kế vị sau khi Giản Vương chết. Vì thương con nhỏ chết yểu nên đau khổ mà chết, mai táng ở núi Chu (nay là núi Ba Đình nước Tây Nam thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam), một chuyện khác nói mai táng ở núi Linh Sơn (nay thuộc huyện Nghị Dương, tỉnh Hà Nam).

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 545 TCN

Tháng 7 năm 546 TCN vào thời gian Cơ Tiết Tâm trị vì, đại phu nước Tống gợi ý cho hai nước Tần, Sở mở đại hội ở Thượng Khâu (đô thành nước Tống) (nay thuộc thành phố Thượng Khâu tỉnh Hà Nam), điều đình về cuộc chiến giữa hai nước Tấn, Sở. Cho mời những đại phu có thế lực ở 10 nước: Tấn, Sở, Tống, Lỗ, Vệ, Trấn, Trịnh, Tào, Hứa, Thái… tham gia đại hội. Đại hội quyết định chấm dứt cuộc chiến tranh giữa các nước, tôn vua của hai nước Tấn, Sở cùng làm bá chủ, phân chia quyền lợi, ai phá hoại hiệp nghị, các nước sẽ cùng trừng phạt. Đại hội này trong sử gọi là “Đại hội liên minh về những điều mật trong quân đội”.

Hơn 10 năm sau đại hội liên minh do nước Sở mãi lo đối phó với nước Ngô, nước Tấn chú ý mọi chuyện trong nước nên hai nước đó không còn binh lực để chinh chiến, do đó 10 quốc gia thuộc hội liên minh không phát sinh chiến tranh. Tuy vậy cuộc chiến tranh tranh quyền đoạt vị trong nội bộ các nước vẫn là một cái nhọt nhức nhối luôn luôn xảy ra các cuộc đấu đá. Đại hội liên minh chính là cột mốc phân chia hai giai đoạn thời Xuân Thu. Trước khi diễn ra đại hội lấy sự thân tình giữa các nước chư hầu làm chính, sau đại hội lấy sự thân tình giữa đại phu trong nội bộ các nước làm chính. Xã hội các nước đang chuẩn bị chuyển sang một trang vở mới, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt.

Năm 555 TCN ở nước Trịnh đại thần Tử Khổng lên chấp chính, ông ta rất chuyên quyền, nhân dân không bằng lòng và dưới sự chỉ huy của Tử Triển, Tử Tây quân lính đã giết chết Tử Khổng. Cùng năm đó, quốc quân của nước Cử là Tất Công bức hại nhân dân, bị mọi người căm ghét và vùng lên đấu tranh giết chết ông ta.

Năm 550 TCN, ở nước Trấn, quý tộc Khánh Thị bắt ép thứ dân xây thành trì. Lúc xây thành trì, dùng hình phạt nghiêm khắc, đích thân Khánh Thị giám sát và đốc thúc chuyện xây dựng, những thứ dân nào lười nhác hoặc không làm ông ta thường giết chết. Bị dồn ép quá nhiều khiến dân chúng nổi dậy, giết chết Khánh Hổ và Khánh Dần. Cuộc khởi nghĩa này làm cho quý tộc nước Trấn kinh hãi, không dám chèn ép họ.

Con trưởng của Cơ Tiết Tâm tên là Cơ Tấn vốn rất thông minh rất thích thổi sáo, anh ta có thể thổi những khúc nhạc giống như tiếng chim phượng hoàng kêu. Làm cho người nghe say mê. Cơ Tiết Tâm rất yêu quý Cơ Tấn đòi lập Cơ Tấn làm thái tử. Không ngờ thái tử năm 17 tuổi bị bệnh chết, Cơ Tiết Tâm đau thương khôn xiết.

Truyền thuyết nói có người thấy Linh Vương bị thương như vậy, lo lắng sẽ tổn hại đến sức khỏe của Linh Vương, liền lợi dụng sự mê tín để khuyên giải ông ta: “Bây giờ thái tử đang ở trên Câu Lĩnh cưỡi hạc trắng ngồi thổi sáo. Thái tử muốn nhắn nhủ với vua cha, không cần phải thương tiếc, thái tử đi theo các vị tiên cư trú trên núi, sống rất vui vẻ.”

Không ngờ, nghe xong tin đó, Cơ Tiết Tâm càng nhớ thương con trai, ngày đêm khóc lóc, tinh thần suy sụp.

Vào một đêm của tháng 11/545 TCN, Cơ Tiết Tâm mơ mơ tỉnh tỉnh thấy con trai cưỡi hạc đón ông ta. Sau khi tỉnh dậy Cơ Tiết Tâm nói: “Con trai tôi đến đón tôi, tôi cần phải đi”. Và truyền ngôi cho con thứ là Cơ Quý. Ông bị bệnh chết. Sau khi ông ta chết, lập miếu lấy hiệu là Linh Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Linh Vương: Cơ Tiết Tâm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-linh-vuong-co-tiet-tam/feed/ 0
Chu Cảnh Vương: Cơ Quý https://ngaydacbiet.com/chu-canh-vuong-co-quy/ https://ngaydacbiet.com/chu-canh-vuong-co-quy/#respond Thu, 15 Jul 2021 23:41:40 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-canh-vuong-co-quy/ Chu Cảnh Vương tên thật là Cơ Quý. Ông là con thứ hai của Chu Linh Vương. Kế vị sau khi Linh Vương chết. Trị vì 25 năm, bị ốm chết, mai táng ở Địch Tuyền (nay thuộc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam). Năm sinh, năm mất: ? TCN – 520 TCN Cơ […]

Bài viết Chu Cảnh Vương: Cơ Quý đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Cảnh Vương tên thật là Cơ Quý. Ông là con thứ hai của Chu Linh Vương. Kế vị sau khi Linh Vương chết. Trị vì 25 năm, bị ốm chết, mai táng ở Địch Tuyền (nay thuộc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam).

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 520 TCN

Cơ Quý lên trị vì, nền tài chính khốn khó, các dụng cụ đồ dùng đều phải đi xin xỏ ở các nước. Có một lần, ông ta mở tiệc rượu mời đại thần nước Tấn là Tuần Lục đến dự, chỉ vào bình rượu nước Lỗ mang tặng nói: “Các nước đều có đồ vật tặng vương thất, tại sao chỉ có nước Tấn là không tặng gì?”. Viên quan tháp tùng Tuần Lực tên là Tịch Đàm trả lời: “Lúc nước Tấn mới được thành lập, vương Triều không tặng gì cả, bây giờ nước Tấn phải lo đối phó với tộc Nhung nên không có lễ vật mang đến.” Cơ Quý liệt kê ra những đồ mà triều Chu cho nước Tấn, châm biếm Tịch Đàm không hiểu rõ về những lịch sử của tổ tông. Đây chính là lai lịch của câu thành ngữ “Kể điển quên nguồn”. Câu chuyện này nói rõ, những năm đầu thời Xuân Thu vương triều còn có đồ đựng để cho Chư hầu, thời này ngược lại phải dựa vào chư hầu xin xỏ đồ dùng, uy lực của thiên tử đã bị sa sút ghê gớm.

Trong thời gian Cơ Quý trị vì, đại thần chấp chính nước Trịnh là Tử Sản (còn gọi là Công Tôn Kiều, tên tự là Tử Mĩ) ông cho thực hiện cải cách chỉnh đốn chế độ ruộng đất, thừa nhận ruộng đất tư hữu, biên chế nhà cửa cho nông dân, giảm nhẹ tô thuế. Tử Sản còn đúc một cái đình sắt nặng hơn 200 kg ghi chép trên đó những văn chương chế định mới, thành quả trong cải cách, đặt chiếc đình đó ở cửa lớn của cung Vua, để bà con trăm họ đều biết hình pháp mới. Chiếc đình này rất nổi tiếng trong lịch sử. Do những điếu lệ mới hạn chế hành vi của quý tộc, động chạm tới lợi ích của quý tộc, vì vậy các quý tộc liền sáng tác một ca khúc tỏ ý thương xót tài sản của họ, đại ý lời ca là: “Tôi phải đem cất giấu quần áo đẹp đi và đem tài sản ruộng đất phân tán đi. Ai muốn đi giết Tử Sản, tôi nhất định ủng hộ”.

Tử Sản nghe xong lời ca đã nói: “Chỉ cần có lợi cho quốc gia, tôi chết cũng cam lòng, còn việc cải cách không thể bỏ dở giữa chừng”. Vài năm sau, công việc cải cách đã có hiệu quả đáng mừng, nhân dân nước Trịnh đã dùng lời ca để cảm tạ Tử Sản, đại ý lời ca là: “Con cháu, anh em của chúng tôi đều được Tử Sản dạy bảo, tài sản của chúng tôi đã được Tử Sản giúp tăng nên nhiều lần, nếu Tử Sản chết, không có ai tốt bằng ông ta”.

Tử Sản chấp chính 20 năm giúp cho nội bộ nước Trịnh ổn định, sản xuất phát triển, về mặt đối ngoại luôn giữ được uy tín với các chư hầu khác khiến cho các nước lớn không dám coi thường nước Trịnh là một nước nhỏ bé.

Năm 522 TCN, người chấp chính nước Trịnh là Tử Đại Thúc, ông ta áp bức nhân dân. Dồn dân chúng đến tập trung ở đất Hoàn Phó (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Tử Đại Thúc cùng với quý tộc chỉ nô lệ mộ ra cuộc đấu tranh vũ trang. Sau này dưới sự ép buộc của Tử Đại Thức, những tay sai của ông ta bị chết hết trong cuộc chiến áp bức dân chúng.

Thời Cơ Quý trị vì, lập con trai của vợ cả làm thái tử, nhưng về sau Cơ Quý lại sủng ái con cả của vợ lẽ là Cơ Triều. Tháng 4/520 TCN Cơ Quý bị bệnh nặng, đã cho mời đại phu Mãnh Tân đến nhà và lập Cơ Triều lên ngôi. Cơ Triều chưa kịp đăng quang thì Cơ Quý đã chết.

Sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Cảnh Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Cảnh Vương: Cơ Quý đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-canh-vuong-co-quy/feed/ 0
Chu Điếu Vương: Cơ Mãnh https://ngaydacbiet.com/chu-dieu-vuong-co-manh/ https://ngaydacbiet.com/chu-dieu-vuong-co-manh/#respond Thu, 15 Jul 2021 20:25:02 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-dieu-vuong-co-manh/ Chu Điếu Vương tên thật là Cơ Mãnh, là con thứ ba của vợ cả Chu Cảnh Vương, kế vị sau khi Cảnh Vương chết. Trị vì 6 tháng thì ốm chết, mai táng ở đâu không rõ. Nam sinh, năm mất: ? TCN – 520 TCN Thời Cảnh Vương trị vì, anh trưởng của […]

Bài viết Chu Điếu Vương: Cơ Mãnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Điếu Vương tên thật là Cơ Mãnh, là con thứ ba của vợ cả Chu Cảnh Vương, kế vị sau khi Cảnh Vương chết. Trị vì 6 tháng thì ốm chết, mai táng ở đâu không rõ.

Nam sinh, năm mất: ? TCN – 520 TCN

Thời Cảnh Vương trị vì, anh trưởng của Cơ Mãnh bị chết yểu, nên lập Cơ Mãnh làm thái tử nhưng về sau Cảnh Vương lại sủng ái con trưởng của vợ lẽ tên là Cơ Triều, vì vậy trong lúc bị bệnh nặng đã gọi đại phu Mãnh Tân, đến nhờ vả giúp Cơ Triều lên ngôi nhưng ý định chưa kịp thực hiện thì Cảnh Vương chết. Sau khi Cảnh Vương chết, hai quý tộc là Lưu Quyển và Đơn Kỳ đã giết chết Mãnh Tân và lập Cơ Mãnh làm vua.

Sau khi Cơ Mãnh lên ngôi, Cơ Triều rất ghen tức. Cơ Triều liền vứt bỏ chức vị đi chỗ khác ở, không sống trong cung và dẫn một số binh sĩ làm phản tranh đoạt ngôi vua với anh. Lưu Quyển bị đánh bại phải chạy trốn, Đơn Kỳ bảo vệ Cơ Mãnh ở trong cung. Vây cánh của Cơ Triều đột nhập vào cung, đuổi bắt Cơ Mãnh. Đơn Kỳ đột phá vòng vây chạy thoát, vây cánh của Cơ Triều bắt giữ được Cơ Mãnh nhưng không đuổi bắt được Đơn Kỳ. Chạy được nửa đường, Đơn Kỳ gặp Tịch Đàm và Tuấn Lạc (do vua Tấn sai đi) mang quân tới ứng cứu Cơ Mãnh, bảo vệ Cơ Mãnh về đất Vương Thành (nay thuộc phía Đông Bắc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam). Không lâu sau sai lính đón Cơ Mãnh về đô thành. Tháng 10 năm đó, Cơ Mãnh ốm chết.

Sau khi ông ta chết, lập miếu đặt hiệu là Điếu Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Điếu Vương: Cơ Mãnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-dieu-vuong-co-manh/feed/ 0
Chu Vương Tử: Cơ Triều https://ngaydacbiet.com/chu-vuong-tu-co-trieu/ https://ngaydacbiet.com/chu-vuong-tu-co-trieu/#respond Thu, 15 Jul 2021 18:00:45 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-vuong-tu-co-trieu/ Chu Vương Tử tên thật là Cơ Triều. Chu Cảnh Vương sủng ái con cả của vợ lẽ là Cơ Triều, sau khi Cảnh Vương chết, Chu Điếu Vương lên kế vị, Cơ Triều đã làm loạn. Điếu Vương chết, Kính Vương kế vị. Cơ Triều lại đuổi Kính Vương, tự mình lên ngôi. Sau […]

Bài viết Chu Vương Tử: Cơ Triều đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Vương Tử tên thật là Cơ Triều. Chu Cảnh Vương sủng ái con cả của vợ lẽ là Cơ Triều, sau khi Cảnh Vương chết, Chu Điếu Vương lên kế vị, Cơ Triều đã làm loạn. Điếu Vương chết, Kính Vương kế vị. Cơ Triều lại đuổi Kính Vương, tự mình lên ngôi. Sau đó đã bị ám sát chết, mai táng ở đâu không rõ.

Nam sinh, năm mất: ? TCN – 505 TCN

* Cơ Triều, Cảnh Vương lúc còn sống rất sủng ái, ông ta muốn lập Cơ Triều làm thái tử mà không thực hiện được dự định. Sau khi Cảnh Vương chết, các quý tộc Lưu Quyển, Đơn Kỳ đã lập Cơ Mãnh làm vua. Cơ Triều liên kết với các đại thần và dẫn binh lính làm phản, bắt giữ Điếu Vương, chiếm giữ đô thành. Sau khi Điếu Vương chết, Kính Vương lên kế vị, Cơ Triều lại bắt giữ Kính Vương, tự mình nên ngôi, người thời đó gọi ông ta là “Tây Vương”.

Năm 516 TCN, Cơ Triều bị quân Tấn đánh bại nên đã mang toàn bộ sách cổ và một số quý tộc chạy tới nước Sở.

Mùa xuân năm 505, Kính Vương được nước Ngô giúp sức đã có cơ hội đánh nước Sở và Kính Vương sai quân ám sát Cơ Triều.

Trong sách sử gọi Cơ Triều là Vương Tử Triều.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Vương Tử: Cơ Triều đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-vuong-tu-co-trieu/feed/ 0
Chu Kính Vương: Cơ Cái https://ngaydacbiet.com/chu-kinh-vuong-co-cai/ https://ngaydacbiet.com/chu-kinh-vuong-co-cai/#respond Thu, 15 Jul 2021 16:05:40 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-kinh-vuong-co-cai/ Chu Kính Vương tên thật là Cơ Cái. Con thứ của Chu Cảnh Vương, em trai của Chu Điếu Vương, kế vị sau khi Điếu Vương chết, trị vì 44 năm, bị bệnh chết, mai táng ở Tam Nhâm Lăng (nay thuộc phía đông nam thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam). Năm sinh, năm […]

Bài viết Chu Kính Vương: Cơ Cái đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Kính Vương tên thật là Cơ Cái. Con thứ của Chu Cảnh Vương, em trai của Chu Điếu Vương, kế vị sau khi Điếu Vương chết, trị vì 44 năm, bị bệnh chết, mai táng ở Tam Nhâm Lăng (nay thuộc phía đông nam thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam).

Năm sinh, năm mất: ? TCN – 476 TCN

Sau khi Điếu Vương chết, Lưu Quyển, Đơn Kỳ đã lập Cơ Cái lên kế vị, cư trú ở Địch Tuyền, dân chúng gọi ông ta là Đông Vương.

Thời gian Cơ Kính trị vì, nước Ngô cũng hưng thịnh dần dần, nước Ngô tích cực tham gia vào cuộc chiến tranh giành chức vị bá chủ.

Năm 515 TCN, con của Ngô Vương Chư Phàn là Công Tử Quang được sự giúp đỡ của Ngũ Tử Tư đã chạy trốn khỏi nước Sở, Công Tử Quang xúi giục các tướng sĩ giấu quân giáo trong lòng thuyền đánh cá đợi cơ hội. Khi nào mở yến tiệc sẽ xông ra cướp lương thực, Công Tử Quang còn mưu sát em họ lúc đó đang là vua nước Ngô, đoạt quyền. Công Tử Quang đăng quang, trong sử sách gọi là Ngô Vương Hà Lừa.

Sau khi Hà Lừa làm vua, dưới những mưu kế của Ngũ Tử Tư đã đem quân đánh nước Sở, quân đội của nước Ngô rất mạnh khiến quân Sở phải đầu hàng vô điều kiện.

Năm 500 TCN Hà Lừa đã cử Tôn Vũ (người nước Tấn) làm tướng quân dẫn lính đi chinh phạt nước Sở và bắt được vô số tù binh, đánh vào đô thành Ảnh của nước Sở (nay thuộc phía Bắc thành phố Giang Lãng tỉnh Hà Bắc), khiến Sở Chiêu Vương phải chạy trốn. Đại thần của nước Sở là Giáp Bao Tự thấy vua Sở phải trốn chạy nên đã tới nước Tấn xin mang quân đánh giúp. Tần Ai Công do dự không giúp khiến Giáp Bao Tự phải quỳ ngoài cửa cung khóc lóc 7 ngày 7 đêm, không ăn không uống, chuyện đó làm Tần Ai Công cảm động đã hạ lệnh xuất quân giúp nước Sở. Cuộc chiến kéo dài vài tháng, thêm vào đó nước Ngô lại xảy ra nội chiến do đó nước Sở mới đánh bại được nước Ngô. Sở Chiêu Vương quay về đô thành Ảnh, lo sợ quân Ngô lại tấn công nên sai dời đô đến đất Nhược (nay thuộc phía Đông Nam thành phố Nghị, tỉnh Hà Bắc). Trận chiến tranh giữa nước Ngô và Sở kéo dài hơn 10 tháng, trong sử gọi là “cuộc chiến ở kinh thành Ảnh của hai nước Ngô Sở”.

Năm 496 TCN, nhân cơ hội vua nước Việt chết, con trai là Câu Tiễn lên kế vị, mặc dù Ngũ Tử Tư đã khuyên can nhưng Hà Lừa vẫn mang quân đi đánh nước Việt, Câu Tiễn đã đưa quân đi chặn, quân lính hai bên đánh nhau ở đất Túy Quý (nay thuộc phía Tây Nam thành phố Gia Hưng tỉnh Chiết Giang). Quân Ngô phòng thủ nghiêm chỉnh, Câu Tiễn hai lần cho đội quân cảm tử (dám chết) đi đánh xung phong nhưng đều bị thất bại, sau đó ông ta nghĩ ra một mưu mẹo ra lệnh cho 3 đội quân tự kề dao găm vào cổ mình hướng về phía mỗi binh lính trong đội quân Ngô hét: “Hai quân đánh trận, chúng tôi vì vi phạm quốc lệnh, không xứng làm một quân nhân, cần phải lấy cái chết để chuộc tội”. Hét xong, lần lượt tự vẫn. Cảnh tượng thương tâm này làm cảm động quân Ngô, khiến họ dao động tâm tư. Quân Việt thừa cơ xông ra chiến đấu khiến quân Ngô bị thất bại nặng nề, Hà Lừa cũng bị tướng lĩnh nước Việt chặt đứt một chân và chết trên đường về cung. Con trai của Hà Lừa là Phù Sai lên kế vị, Phù Sai thề báo thù cho cha. Cuộc chiến tranh này sử sách gọi là “Cuộc chiến trên đất Túy Quý của hai nước Ngô Việt”.

Hai năm sau (497 TCN), Phù Sai cho Ngũ Tử Tư làm đại tướng, Bài Thất làm phó tướng, dốc toàn bộ quân đội không nghe lời khuyên của Phạm Lãi và Văn Chủng, vẫn mang quân đi nghênh chiến, chặn đánh ở đất Phu Tiêu (Nay thuộc núi Thái Hồ Tiêu tỉnh Giang Tô), bị quân Ngô đánh cho đại bại. Câu Tiển thống lĩnh 5000 quân lính phòng thủ đô thành Hội Kê, bị quân Ngô bao vây. Lúc này Việt Vương Câu Tiễn đành nghe lời khuyên của Văn Chủng, lấy lễ vật cống tiến xin đầu hàng. Ngũ Tử Tư khuyên Phù Sai giết Câu Tiễn diệt nước Việt để trừ hậu họa về sau; Bá Thất do nhận của hối lộ của nước Việt nên cản trở ý định của Ngũ Tử Tư và nói với Phù Sai tha mạng cho Câu Tiễn. Phù Sai chấp nhận yêu cầu của Bá Thất đồng ý cho vua nước Việt được bảo toàn mạng sống.

Sau khi nước Việt đầu hàng, Câu Tiễn cùng vợ và hơn 300 quân thần bị giải đến nước Ngô. Câu Tiễn bị bắt làm người chăn ngựa, còn vợ ông ta bị sai quét phòng thất. Họ sống trong phòng tối ăn đói mặc rách, khổ ải vô cùng. Qua 3 năm, Câu Tiễn được thả về nước Việt. Từ đó quần thần của Câu Tiễn vạch ra kế hoạch phục thù, họ đưa ra khẩu hiệu “10 năm nếm mật 10 năm giáo huấn”. Một mặt khác luôn mang mĩ nữ như Tây Thi, Trịnh Đán và châu báu đến cống hiến Phu Biệt, mục đích dùng phương pháp mỹ nhân kế để đánh đố Phù Sai; một mặt khác tích cực phát triển sản xuất, chỉnh đốn nội chính, chiêu tập nhân tài, tăng cường quân đội, đợi chờ thời cơ đánh nước Ngô. Để làm gương cho mọi người Câu Tiễn sống cũng rất kham khổ; sống ở nhà cỏ, ăn cơm nhạt, uống nước sông, ở trước cửa nhà còn treo một miếng mật đắng, lúc đi ra đi vào đều phải nếm để nhắc nhở bản thân mình không được quên những những ngày khổ nhục và chí hướng phục quốc. Nước Việt dần dần được khôi phục, nền kinh tế ngày một phát triển.

Ngũ Tử Tư thấy Phù Sai thả Câu Tiễn đúng là “thả hổ về rừng”, lại khuyên can Phù Sai nên diệt nước Việt, giết Câu Tiễn. Nhưng Phu Biệt không nghe, thêm vào đó là những lời xu nịnh của Bá Thất, Phu Biệt bắt Ngũ Tử Tư tự vẫn, Ngũ Tử Tư ngửa mặt lên trời nói: “Sau khi tôi chết, hãy móc hai mắt của tôi treo ở cửa phía Tây thành Cô Tô (nay là thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô), tôi muốn nhìn quân Việt đánh vào thành Cô Tô”.

Năm 482 TCN, Câu Tiễn lợi dụng cơ hội Phu Biệt đi đến Hoàng Chì (nay là phía Tây Nam huyện Phong Khâu tỉnh Hà Nam) dự đại hội liên minh với các nước: Tấn, Lỗ; Câu Tiễn đã dẫn 50000 đánh nước Ngô. Nghe được tin này Phù Sai vội vã quay về cung, bị Câu Tiễn bắt phải giảng hòa.

4 năm sau, Câu Tiễn lại đánh nước Ngô, và một lần nữa lại đánh được vào thành Cô Tô. Mùa đông năm 473 TCN, quân Việt 3 lần đánh vào thành Cô Tô, Phù Sai bị bao vây trên núi Cô Tô (nay là phía Tây Nam thành phố Tô Châu huyện Giang Tô) và đành phải xin đầu hàng làm sứ thần. Nhưng Phạm Lãi cản trở Câu Tiễn không đồng ý với điều kiện đó. Phù Sai quá hối hận và xấu hổ vì không nghe lời của Ngũ Tử Tư, vả lại nước Việt không đồng ý tha mạng nên đã tự sát.

Thời Cơ Cái trị vì, vào năm 478 TCN, các thợ thủ công nghiệp nước Vệ do không chịu nổi sự chèn ép của Vệ Trang Công, đã nổi dậy đấu tranh, bao vây cung vua. Vệ Trang Công cầu xin tha mạng nhưng không được, đành phải mang thái tử Tật và công tử Thanh nhẩy qua tường trốn chạy ra ngoại bị gãy chân. Lúc người Nhung Châu sống ở gần đô thành nước Vệ nghe tin Vệ Trang Công bị thương cũng chạy đến muốn giết chết thái tử Tật và công tử Thanh. Vệ Trang Công chạy vào nhà Dĩ Thị (người Nhung Châu), cầu khẩn nói: “Hãy cứu giúp tôi, tôi sẽ mang vàng bạc tới tạ ơn anh”. Vợ của Dĩ Thị một lần bị Vệ Trang Công cắt mái tóc của cô ta đưa cho vợ mình làm tóc giả lúc này cũng tức giận hét lên: “Tôi sẽ giết chết ông”, nói xong liền giết chết Vệ Trang Công. Cuộc bạo động của các thợ thủ công cũng đánh động vào sự thống trị của quý tộc chủ nô lệ nước Vệ, làm cho bọn chúng sợ hãi kinh hoàng.

Thời Cơ Cái trị vì, nhà tư tưởng nhà giáo dục cổ đại Trung Quốc là Khổng Tử cũng sống ở thời kỳ này vào những năm trung tuổi ông rất bận rộn. Khổng Tử tên là Khâu, người Châu Ấp (nước Lỗ) (nay là phía Đông Nam huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông) Khổng Tử đề ra chủ trương chính trị và những căn cứ lý luận để bảo vệ sự sụp đổ của chế độ nô lệ. Về sau, tư tưởng bảo thủ của Khổng Tử đã bị giai cấp thống trị phong kiến lợi dụng trở thành công cụ tinh thần bảo hộ chế độ phong kiến và thống trị nhân dân. Khổng Tử mở trường học tư, mở rộng đối tượng giáo dục, trong tư tưởng giáo dục và phương pháp dạy học cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm có ích. Vào những năm cuối đời ông viết được những quyển sách quý như “Thượng Thư”, “Xuân Thu”, “Thơ Kinh” những bộ sách quý này là đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hóa cổ đại Trung Quốc.

Trong thời gian Kính Vương trị vì luôn luôn đánh nhau với Tây Vương Cơ Triều để giành giật ngôi vị. 6 năm sau, nhờ sự giúp đỡ của quân Tấn, Kính Vương đã đánh bại Cơ Triều, củng cố được vương vị.

Sau khi Cơ Cái chết lập miếu đặt hiệu là Kính Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Kính Vương: Cơ Cái đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-kinh-vuong-co-cai/feed/ 0
Chu Định Vương: Cơ Giới https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-gioi/ https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-gioi/#respond Thu, 15 Jul 2021 14:30:54 +0000 https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-gioi/ Chu Định Vương tên thật là Cơ Giới, là con của Chu Nguyên Vương. Kế vị sau khi Nguyên Vương chết. Trị vì 28 năm, ốm chết, mai táng ở ngoại ô Bất Minh. Năm sinh, năm mất: (? TCN – 441 TCN) * Vào năm 453 TCN, thời gian Cơ Giới trị vì, 3 […]

Bài viết Chu Định Vương: Cơ Giới đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chu Định Vương tên thật là Cơ Giới, là con của Chu Nguyên Vương. Kế vị sau khi Nguyên Vương chết. Trị vì 28 năm, ốm chết, mai táng ở ngoại ô Bất Minh.

Năm sinh, năm mất: (? TCN – 441 TCN)

* Vào năm 453 TCN, thời gian Cơ Giới trị vì, 3 đại phu nước Tấn là Triệu Tương Tử, Hán Khang Tử, Ngụy Hoàn Tử lần lượt thôn tính loại bỏ các quý tộc khác và cùng nhau loại bỏ nhà quý tộc cuối cùng là Tri Bá, trên thực tế hình thành 3 quốc gia (Triệu, Hán, Ngụy), thực ra quốc quân nước Tấn là U Công muốn phân chia ra như vậy để bắt 3 nước Triệu, Hán, Ngụy phải nộp cống phẩm. Điều đó nói rõ: ở nước Tấn thế lực mới đã chiến thắng thế lực cũ.

Mùa xuân năm 441 TCN, Cơ Giới ốm chết. Sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Chu Định Vương.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Chu Định Vương: Cơ Giới đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chu-dinh-vuong-co-gioi/feed/ 0
Năm bá chủ thời Xuân Thu https://ngaydacbiet.com/nam-ba-chu-thoi-xuan-thu/ https://ngaydacbiet.com/nam-ba-chu-thoi-xuan-thu/#respond Thu, 15 Jul 2021 13:16:05 +0000 https://ngaydacbiet.com/nam-ba-chu-thoi-xuan-thu/ Có thuyết nói Ngã Bá thời Xuân Thu là Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương. Có một thuyết khác nói Ngũ Bá là những người: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương, Ngô Vương, Việt Vương 1. Tề Hoàn Công Tên ông ta là: […]

Bài viết Năm bá chủ thời Xuân Thu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Có thuyết nói Ngã Bá thời Xuân Thu là Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương. Có một thuyết khác nói Ngũ Bá là những người: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương, Ngô Vương, Việt Vương

1. Tề Hoàn Công

Tên ông ta là: Khương Tiểu Bạch (? TCN – TCN).

Là con trai của Tề Li Công, em trai của Tề Tương Công. Bị Tương mưu hại nhưng không thành. Hoàn Công phải trốn chạy. Sau khi Tương Công bị giết mới dám quay về nước Tề cướp đoạt vương vị. Trị vì 43 năm, bị bệnh mất vào tháng 12 năm 643 TCN. Năm người con của ông ta tranh nhau ngôi vị nên dẫn đến nội chiến, do đó ông ta chết 67 ngày mới được mai táng, thân thể có dòi, dòi bọ bò hết ra ngoài cửa. Mai táng ở ngoại ô Bất Minh.

2. Tống Tương Công

Tên ông ta là Từ Phụ (? TCN – 637 TCN)

Là con trai của Tống Hoàn Công. Kế vị sau khi Tống Hoàn Công. Trì vì 14 năm. Từng cùng Tề Hoàn Công tham gia đại hội liên minh cở Đăng Khâu. Tề Hoàn Công chết, nước Tề xảy ra nội chiến, Tống Hoàn Công mang quân đi can thiệp, có ý đồ thay thế chức vị bá chủ, ngược lại trong đại hội thì Trịnh Thành Vương chiếm ưu thế. Sau khi giải thích lý do vì sao không được ngôi vị bá chủ ông ta mang quân đi chinh phạt nước Trịnh. Tháng 11 năm 638 TCN trong cuộc chiến ở sông Hoằng Thủy, do không có tài năng chỉ huy nên bị thua trận, bị thương rồi chết. Mai táng ở Bất Minh.

3. Tấn Văn Công

Tên ông ta là Cơ Trọng Nhĩ (697 TCN – 698 TCN).

Là con trai của Tấn Hiến Công, là chú của Tấn Hoại Công. Ông ta bị mẹ ghẻ làm hại phải sống lưu vong ở bên ngoài 19 năm. Về sau được Tấn Mục Công mang quân hộ tống về nước Tấn lập làm quốc quân. Trị vì được 9 năm. Ông ta đã trọng dụng những người như: Triệu Suy dẹp yên nội chiến, chỉnh đốn pháp luật, dẹp loạn cho vương triều Chu. Trong trận chiến ở đất Thành đánh bại quân Sở, mở đại hội chư hầu và xưng bá. Bị ốm chết vào mùa đông năm 628 TCN, thọ 70 tuổi. Mai táng ở ngoại ô Bất Minh.

4. Tần Mục Công

Tên ông ta là: Doanh Nhậm hảo (? TCN – 621 TCN).

Con của Tần Thánh Công. Kế vị sau khi Tần Thành Công chết. Trị vì được 39 năm. Ông ta trọng dụng những người như: Bách Lí Hề, lợi dụng quan hệ hôn nhân để can thiệp vào nội bộ nước Tấn, có ý đồ mở đường tranh chức vị bá chủ Trung Nguyên. Nhân cơ hội Tấn Văn Công chết đã mang quân tập kích nước Tấn, không ngờ gặp quân Tần phục kích, bị thua lớn. Sau chuyện này chuyển đổi hướng tấn công sang phía Tây, mở rộng lãnh thổ, xưng bá ở Tây Nhung. Bị chết vào mùa hạ năm 621 TCN, mai táng ở Ung (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây).

5. Sở Trang Vương

Tên ông ta là: Mễ Thu (? TCN – 591 TCN).

Con của Sở Mục Vương, kế vị sau khi Sở Mục Vương chết, trị vì 23 năm, bị bệnh chết vào năm 591 TCN. Mai táng ở ngoại ô Bất Minh.

6. Ngô Vương

Tên ông ta là: Lạc Hà, còn có một tên khác là Cơ Quang (? TCN – 496 TCN).

Con của Ngô Vương Chư Phàn, anh họ của Ngô Vương Liêu ông ta sai người mưu sát Liêu sau đó đoạt ngôi vị. Trị vì 19 năm. Năm 496 TCN trong trận chiến ở Túy Quý bị thương và chết.

7. Việt Vương

Tên là Câu Tiễn (? TCN – 469 TCN).

Con của Việt Vương Doãn Đường, kế vị sau khi cha chết. Trị vì 32 năm. Bị bệnh chết vào năm 465 TCN, mai táng ở ngoại ô Bất Minh.

Đế Vương Trung Hoa,

Bài viết Năm bá chủ thời Xuân Thu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/nam-ba-chu-thoi-xuan-thu/feed/ 0