Hy Lạp cổ đại - Ngày đặc biệt https://ngaydacbiet.com/category/hy-lap-co-dai/ Tổng hợp ngày nghỉ lễ âm lịch, dương lịch và sự kiện trong năm Fri, 16 Jul 2021 21:48:43 +0000 vi hourly 1 https://ngaydacbiet.com/wp-content/uploads/2024/07/cropped-000777066-r503366006-1-32x32.webp Hy Lạp cổ đại - Ngày đặc biệt https://ngaydacbiet.com/category/hy-lap-co-dai/ 32 32 Nguồn sử liệu và lịch sử sử học Hy Lạp https://ngaydacbiet.com/nguon-su-lieu-va-lich-su-su-hoc-hy-lap/ https://ngaydacbiet.com/nguon-su-lieu-va-lich-su-su-hoc-hy-lap/#respond Fri, 16 Jul 2021 21:48:43 +0000 https://ngaydacbiet.com/nguon-su-lieu-va-lich-su-su-hoc-hy-lap/ Việc nghiên cứu lịch sử Hi Lạp cổ được bắt đầu từ thời cổ đại. Hiện nay, khoa học lịch sử đã có một khối lượng lớn những tư liệu. Nguồn sử liệu nghiên cứu lịch sử Hi lạp Nguồn tư liệu mà các nhà sử học sử dụng để viết về lịch sử Hi […]

Bài viết Nguồn sử liệu và lịch sử sử học Hy Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Việc nghiên cứu lịch sử Hi Lạp cổ được bắt đầu từ thời cổ đại. Hiện nay, khoa học lịch sử đã có một khối lượng lớn những tư liệu.

Nguồn sử liệu nghiên cứu lịch sử Hi lạp

Nguồn tư liệu mà các nhà sử học sử dụng để viết về lịch sử Hi Lạp rất đa dạng, có thể phân chia thành mấy loại sau đây :

a) Những di tích bằng vật chất, bao gồm nhà cửa, công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng cá nhân, tiền đồng v.v…

b) Tài liệu về ngôn ngữ Hi Lạp (nghiên cứu các thổ ngữ Hi Lạp cho phép ta giải thích vấn đề dân cư).

c) Những tài liệu văn bản: những bộ luật, hiệp ước, sắc lệnh… được lưu giữ dưới dạng văn bia hoặc thông qua các tác giả Hi Lạp.

d) Các tác phẩm văn học

e) Văn học truyền miệng : Quá khứ xa xưa của các dân tộc Hi Lạp được biểu hiện trong các truyền thuyết, câu chuyện, truyện thần thoại. Trong số đó, thần thoại đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Hi Lạp, đặc biệt là lịch sử tôn giáo.

Các giai đoạn nghiên cứu lịch sử Hy Lạp

Phi chính thức: nghiên cứu qua các tài liệu văn học, văn bia, tiền cổ

Những di tích văn học đầu tiên trước công nguyên là hai tập thơ : “Iliát” và “Ôđixê” ra đời vào thế kỉ VII TCN của Hôme. Như là một tư liệu lịch sử, thơ của Hôme có ý nghĩa to lớn mặc dù nó mang tính chất thần thoại. Hai tập thơ đã phản ánh khá rõ nét về chế độ xã hội, nếp sống, tín ngưỡng, tập quán của những bộ lạc Hi Lạp trong giai đoạn chuyển từ chế độ thị tộc sang chế độ chiếm nô.

Nhà sử học đầu tiên của Hi Lạp là Hêrôđốt. Những tài liệu về tiểu sử của ông còn quá ít ỏi và không được chính xác lắm. Ông sinh năm 484 TCN và mất năm 425 TCN. Theo một số tài liệu, ông tham gia hoạt động chính trị ở thành phố quê hương và đấu tranh chống lại ách thống trị. Ông đã buộc phải rời khỏi thành phố quê hương và sau đó đi du lịch nhiều nơi. Ông đã viết tác phẩm : “Lịch sử chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư”, Hêrôđốt đã có ảnh hưởng lớn đến những người cùng thời và nổi tiếng trong thời kì cổ đại. Ông hoàn toàn xứng đáng với tên gọi “Cha đẻ lịch sử”.

Người cùng thời với Hêrôđốt là Tuyxiđít (khoảng 400 TCN – 395 TCN), xuất thân từ một gia đình giàu có danh tiếng. Tác phẩm của ông khá đồ sộ, gồm 8 quyển, trong đó chương đầu là phần giới thiệu về lịch sử cuộc chiến tranh Pêlôpône, bắt đầu bằng lịch sử thời cổ và dẫn dắt người đọc đến những sự kiện chính của cuộc chiến tranh. Nhờ có tác phẩm của ông, chúng ta có thể hiểu rõ những sự kiện của cuộc chiến tranh nói trên. Không những thế, Tuyxiđít còn đặt nền móng cho việc phê bình lịch sử và khái quát lịch sử.

Xênôphôn là một trong những nhà văn Hi Lạp có nhiều tác phẩm, trong đó cuốn “Lịch sử Hi Lạp” được coi như là sự tiếp tục của Tuyxiđít.

Người cùng thời với Xênôphôn là nhà triết học Platôn. Những tác phẩm của ông có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với lịch sử triết học mà còn đối với lịch sử chính trị, xã hội. Đó là các tác phẩm bàn về chính trị như: “Nhà nước” và “pháp luật”. Học trò của ông là Arixtốt tiếp tục phát triển đề tài về nhà nước. Arixtốt đã đưa ra những kết luận dựa trên cơ sở phân tích lịch sử và chế độ chính trị của quốc gia riêng biệt.

Đến thời kì Hi Lạp hóa, tư liệu về sử học để lại cũng khá nhiều. Một tác phẩm lịch sử vĩ đại là của Pôlibia. Ông trình bày lịch sử của các nước Hi Lạp hóa trong thời kì từ năm 220 đến 160 TCN. Sau tác phẩm “Chiến tranh Pêlôpône” của Tuyxiđít, tác phẩm của Pôlibia được coi là tác phẩm lịch sử vĩ đại nhất thời kì cổ đại.

Như thế, những tác phẩm lịch sử Hi Lạp cổ cho phép ta nhớ lại những nét cơ bản trong tiến trình lịch sử Hi Lạp với những thời điểm chủ yếu, chúng còn cung cấp nhiều tài liệu cho việc nghiên cứu chế độ chiếm nô Hi Lạp. Những tư liệu văn hóa khác (như tác phẩm văn học, bi kịch và hài kịch, văn học chính luận) đã đề cập nhiều đến những vấn đề thú vị trong đời sống chính trị và xã hội.

Một nguồn tư liệu khác cần được nói đến là văn bia. Có nhiều văn bia được lưu lại.

Những phát hiện về khảo cổ học đã đem lại nhiều điều mới trong nghiên cứu lịch sử Hi Lạp… Việc nghiên cứu về văn hóa Crét – Mixen chỉ có thể được tiến hành sau khi những khu di tích cổ, tiền Hi Lạp được khai quật. Những khám phá về khảo cổ cho phép khẳng định nền văn hóa Crét ra đời trước văn hóa Mixen. Nhưng cũng đồng thời tìm ra được mối quan hệ giữa Crét và dân ở miền Nam Hi Lạp, do đó có cơ sở để nói về nền văn hóa Crét – Mixen.

Tiền cổ cũng là nguồn tư liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử Hi Lạp. Những đồng tiền Hi Lạp được chạm khắc ở nhiều vùng. Những hình tượng, chữ khắc trên đồng tiền, phương pháp khắc có vai trò trong nghiên cứu lịch sử kinh tế Hi Lạp, trước hết là vấn đề lưu thông tiền tệ.

Giai đoạn nghiên cứu chính thức về lịch sử Hy Lạp

Việc nghiên cứu lịch sử Hi Lạp cổ đại một cách có hệ thống được tiến hành từ thời Phục Hưng. Lúc đầu, mối quan tâm chính là những di tích văn hóa, nghệ thuật. Những bản viết tay của các tác giả cổ đại được phát hiện đóng một vai trò quan trọng.

Ban đầu, lịch sử Hi Lạp chưa phải là một môn khoa học độc lập. Nó là một phần cấu thành của triết học Hi Lạp, một lĩnh vực của những tri thức khoa học nghiên cứu quá khứ của Hi Lạp: Ngôn ngữ, văn học, phong tục và các sự kiện lịch sử. Một trong những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa Hi Lạp là tác phẩm “Lịch sử nghệ thuật cổ” nói về nghệ thuật luôn luôn gắn liền với thiên nhiên và phụ thuộc vào phong tục tập quán, thể chế xã hội.

Cuối thế kỉ XVIII, một công trình khác ra đời, bắt đầu cho việc phê bình phân tích lịch sử. Vonphơ đã xuất bản một tuyển tập so sánh “Iliat” “Ôđixê” với các bản anh hùng ca của dân tộc khác. Tác giả cho rằng, thời kì Hôme, người Hi Lạp chưa có chữ viết. Những bài ca về cuộc chiến tranh Troa được truyền từ đời này qua đời khác. Việc nghiên cứu lịch sử Hi Lạp được hình thành bởi nhiều yếu tố. Lịch sử Hi Lạp cũng như các môn khoa học xã hội khác, phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử chính trị và xã hội. Điều đó được thể hiện trong một chuỗi các sự kiện, trong tính cách của các nhà hoạt động, cách đánh giá các tầng lớp xã hội khác nhau.

Những nhà hoạt động và các chính luận gia thời kỳ cách mạng tư sản Pháp đã hướng tới lịch sử Hi Lạp nhằm biện minh cho những lí tưởng chính trị và xã hội của mình. Những người cộng hòa Hi Lạp được coi như những hình tượng của một chế độ chính trị lí tưởng, họ nêu lên những tấm gương về tinh thần tự do, lòng dũng cảm và chủ nghĩa yêu nước của người Hi Lạp.

Vào giữa thế kỉ XIX, xuất hiện nhiều tác phẩm viết về Hi Lạp. Đó là “Lịch sử Hi Lạp” của Grốt (1794 -1871), “Lịch sử Hi Lạp” của Kirơxiux ; “Lịch sử thời Hi Lạp hóa” của Đrôidây.

Những kết quả nghiên cứu của ngành dân tộc học, mà cơ sở của nó là nghiên cứu đời sống các dân tộc có mức phát triển văn hóa thấp đã thúc đẩy việc tìm hiểu lịch sử Hi Lạp cổ đại. Năm 1861, tác phẩm “Quyền mẫu hệ” của Bachophen đã chỉ ra quyền đó, đã tồn tại trong các dân tộc Hi Lạp và các dân tộc phương Đông.

Các nhà khảo cổ đã tiến hành các cuộc khai quật ở Tiểu Á, Hi Lạp, đặc biệt ở Ôlempic (nơi đã diễn ra thế vận hội thời cổ đại). Những cuộc khai quật 1875 – 1881 đã mang lại một khối lượng tư liệu lớn bao gồm các pho tượng, phù điêu, đồ vật bằng đồng thau, tiền và các văn bia.

Các nghiên cứu bên ngoài Hi Lạp

Các nhà khoa học Nga cũng tham gia một cách tích cực trong các cuộc khai quật và nghiên cứu những tư liệu tìm được. Tại các khu vực phía nam châu Âu của Liên Xô (trước đây), người ta đã phát hiện thấy ảnh hưởng của Hi Lạp. Nhiều tượng, đồ vật, văn bia đã được lưu giữ tại bảo tàng Ecgiơmitat. Cùng với việc nghiên cứu các hiện vật tìm được, việc tìm hiểu lịch sử Hi Lạp cũng phát triển ở Nga. Nhà nghiên cứu đầu tiên, có nhiều tác phẩm nối tiếng ở Nga và Tây Âu là Kutoria (1809 – 1889). Những tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong lịch sử Hi Lạp, ông đặc biệt quan tâm đến lịch sử Aten. Người học trò xuất sắc của ông là Xôbôlôp (1841 – 1909) chuyên nghiên cứu về văn bia. Trong các công trình nghiên cứu lịch sử Hi Lạp của Nga phải kể đến vai trò của Misenkô người đã dịch toàn bộ các tác phẩm của Herôđốt, Tuyxiđít, Pôlibia, và Xtarabôn. Vaxiliep đã chú trọng nghiên cứu lịch sử xã hội Hi Lạp trong thời kì Hi Lạp hóa trong khi vấn đề này không được đề cập đến một cách đầy đủ trong các tác phẩm nghiên cứu ở phương Tây.

Những tác phẩm của C.Mác và Ph.Enghen có những ảnh hưởng lớn tới việc nghiên cứu lịch sử Hi Lạp vào cuối thế kỉ XIX.

Luận án tiến sĩ của Mác đã xem xét những vấn đề về triết học Hi Lạp cổ với tiêu đề: “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcơrít và triết học tự nhiên của Epicuya”. Trong nhiều tác phẩm khác (Hệ tư tưởng Đức, Phê phán kinh tế chính trị, Tư bản), Mác đã giải thích những cơ sở của chế độ chiếm nô, đặc trưng của thời kì cổ đại.

Trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước”, Ph. Enghen đã trình bày một chương đặc biệt về bộ tộc Hi Lạp. Ph.Enghen đã chỉ ra rằng nền dân chủ quân sự giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Hi Lạp cổ. Ông cho rằng việc chuyển từ chế độ nguyên thủy sang chế độ chiếm nô được tiến hành bằng cuộc cách mạng chính trị.

Những năm 90 và đầu thế kỉ XX là thời kì các nhà sử học Nga đạt được nhiều thành công về nghiên cứu lịch sử Hi Lạp. Cùng với việc nghiên cứu lịch sử vùng Bắc Biển Đen, lịch sử thời kì Hi Lạp hóa cũng thu hút được sự quan tâm lớn.

Về các quan hệ xã hội Hi Lạp cổ được đề cập trong các công trình nghiên cứu chuyên đề của các nhà nghiên cứu như Xecgây Kôvaliep. Nhà sử học Mixulin đã giải thích một loạt vấn đề như vai trò của chiến tranh trong nền kinh tế nô lệ trong các tác phẩm của mình.

Những vấn đề về tư tưởng được đề cập trong tác phẩm “Lịch sử tư tưởng xã hội” của Lurie xuất bản năm 1929. Năm 1947, công trình của ông về lịch sử khoa học cổ đại ra đời. Ông đánh giá những thành tựu của các nhà nghiên cứu cổ đại trong các ngành khoa học tự nhiên và xã hội. Vấn đề này cũng được đề cập trong tác phẩm của Macôvenxki.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lịch sử Hi Lạp còn quá ít, tập trung chủ yếu vào các giáo trình của các trường Đại học.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Nguồn sử liệu và lịch sử sử học Hy Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/nguon-su-lieu-va-lich-su-su-hoc-hy-lap/feed/ 0
Điều kiện tự nhiên và dân cư Hi Lạp cổ đại https://ngaydacbiet.com/dieu-kien-tu-nhien-va-dan-cu-hi-lap-co-dai/ https://ngaydacbiet.com/dieu-kien-tu-nhien-va-dan-cu-hi-lap-co-dai/#respond Fri, 16 Jul 2021 21:35:23 +0000 https://ngaydacbiet.com/dieu-kien-tu-nhien-va-dan-cu-hi-lap-co-dai/ Điều kiện tự nhiên Hi Lạp cổ đại Hi Lạp cổ đại là một quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải, có lãnh thổ rộng, bao gồm miền lục địa Hi Lạp (Nam bán đảo Ban Công), miền đất ven bờ Tiểu Á, và những đảo thuộc biển Êgiê. Miền lục địa Hi Lạp […]

Bài viết Điều kiện tự nhiên và dân cư Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Điều kiện tự nhiên Hi Lạp cổ đại

Hi Lạp cổ đại là một quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải, có lãnh thổ rộng, bao gồm miền lục địa Hi Lạp (Nam bán đảo Ban Công), miền đất ven bờ Tiểu Á, và những đảo thuộc biển Êgiê. Miền lục địa Hi Lạp có tầm quan trọng trong lịch sử Hi Lạp.

Miền này có thể được chia thành 3 miền: Bắc, Trung và Nam Hi Lạp. Nét nổi bật của địa hình Hi Lạp là ở cả 3 vùng đều có sự đan xen của cấu trúc địa hình với những đồng bằng, cao nguyên, rừng núi, đồi, sông, suối, eo, vịnh…

Bắc Hi Lạp được dãy Piđơ chia cắt thành 2 khu vực, phía tây là vùng Epia, nhiều rừng núi và phía đông là đồng bằng Tétxali. Từ Bắc xuống Nam, về đường bộ, người Hi Lạp buộc phải vượt qua đèo Tecmophin – một đèo hẹp, hiểm trở.

Trung Hi Lạp có địa hình khác hẳn, ở đây có nhiều rừng núi, chạy dọc, ngang đã chia vùng này thành nhiều khu vực địa lí nhỏ, hẹp hầu như cách biệt với nhau. Trù phú nhất, là đồng bằng Attích và đồng bằng Bêôxi. Trung và Nam Hi Lạp được nối với nhau bằng một eo nhỏ – eo Corinh – có nhiều đồi, núi và rừng nhỏ.

Nam Hi Lạp là một bán đảo nhỏ, hình bàn tay, có 4 ngón duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải. Đây là vùng trù phú nhất với nhiều đồng bằng như đồng bằng Lacôni, Métxêni, Ácôlít. Người Hi Lạp gọi bán đảo này là Pêlôpône.

Bờ biển Hi Lạp dài, có những đặc trưng địa hình riêng ở hai nửa Đông – Tây. Bờ phía tây gồ ghề, lởm chởm không thuận tiện lắm cho việc xây dựng các cảng. Bờ phía đông lại khúc khuỷu, hình răng cưa, tạo ra nhiều vịnh, nhiều hải cảng tự nhiên, an toàn, thuận tiện cho sự đi lại của tàu thuyền. Bờ biển phía tây của miền Tiểu Á cũng có những điều kiện địa hình tương tự như bờ phía đông lục địa Hi Lạp. Còn vùng đất liền ven bờ Tiểu Á, là vùng đất trù phú, tạo thành cầu nối, nối thế giới Hi Lạp với các nền văn minh cổ đại phương Đông.

Hi Lạp cổ đại có nhiều đảo lớn, nhỏ nằm rải rác trên vùng biển Êgiê thuộc Địa Trung Hải, tạo thành một hành lang cầu nối giữa miền lục địa Hi Lạp với Tiểu Á. Đáng kể nhất là đảo Ơbê (ở phía tây), Látbốt, Kiốt, Xamốt (ở phía đông) và nhất là dãy đảo Xiclat, (trong đó có đảo Đêlốt – một trong những trung tâm lớn của người Hi Lạp cổ). Ở phía nam Hi Lạp có đảo Crét trên biển Êgiê, một trung tâm thương mại, đồng thời cũng là trung tâm của nền văn minh tối cổ – văn minh Crét – Myxen – trong lịch sử Hi Lạp.

Kinh tế

Cũng giống như các quốc gia cổ đại khác, điều kiện tự nhiên đã có những tác động đáng kể tới khuynh hướng phát triển của nền kinh tế cũng như thiết chế nhà nước của quốc gia cổ đại Hi Lạp.

Hi Lạp ít đồng ruộng, đất đai lại không thuận lợi và thích hợp với việc trồng cây lương thực, nhưng lại thích hợp với việc trồng nho và ôliu. Một số vùng đất của Hi Lạp – ở Attích, Côranh và Bêôxi – có loại đất sét đặc biệt, dùng để chế tạo đồ gốm tinh xảo, tuyệt mĩ trong hoạt động thủ công. Thiếu đất để canh tác nông nghiệp, nhưng thiên nhiên lại ưu đãi người Hi Lạp bởi nhiều khoáng sản quý như mỏ sắt ở Lôcôni, mỏ đồng ở Ơbê, bạc ở Áttích, vàng ở Tơraxi… Và những rừng gỗ quý bạt ngàn ở khắp miền lục địa.

Những điều kiện tự nhiên đó, ngay từ đầu đã thúc đẩy người Hi Lạp sớm phát triển khuynh hướng của một nền kinh tế thiên về sản xuất thủ công nghiệp hơn là sản xuất nông nghiệp.

Dân cư

Trước thiên kỉ III TCN, trên một số vùng đất của miền lục địa Hi Lạp và một số đảo lớn ở biển Êgiê đã có những cư dân bản địa sinh sống. Chính họ đã sáng tạo ra nền văn minh tối cổ trong lịch sử Hi Lạp – Văn minh Crét, Myxen.

Từ cuối thiên kỉ III, đầu thiên kỉ II TCN, các tộc người Hi Lạ , thuộc ngữ hệ Ấn – Âu, bắt đầu các đợt thiên di liên tục từ vùng hạ lưu Đanuýp xuống vùng Bancăng và các đảo thuộc biển Êgiê kéo dài trên dưới 1.000 năm. Và kết quả là các tộc người Hi Lạp khác nhau đã hoàn toàn chinh phục khu vực, Nam Bancăng và các đảo tạo thành những điểm cư trú cơ bản của người Hi Lạp.

Người Đôrien định cư ở phía nam bán đảo Pêlôpône, đảo Crét và một số đảo nhỏ ở nam Êgiê. Người lônien định cư ở vùng đồng bằng Átích, đảo Ơbê, và những vùng đất ven bờ phía tây Tiểu Á. Người Akeen chủ yếu định cư ở miền Trung Hi Lạp, Người Êôlien ở Bắc Hi Lạp, một số đảo trên biển Êgiê và vùng ven bờ Tiểu Á.

Những tộc người Hi Lạp trên bốn vùng cư trú kể trên đã cùng nhau xây dựng nên lịch sử các quốc gia thành thị Hi Lạp. Họ tự nhận có cùng chung một nguồn gốc, cùng chung một ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán. Họ tự coi là những con cháu của thần Helen (Hellene) và gọi quốc gia của họ là Henlát (Hellas).

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Điều kiện tự nhiên và dân cư Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/dieu-kien-tu-nhien-va-dan-cu-hi-lap-co-dai/feed/ 0
Văn minh Crét – Myxen (thiên niên kỷ III – II TCN) https://ngaydacbiet.com/van-minh-cret-myxen-thien-nien-ky-iii-ii-tcn/ https://ngaydacbiet.com/van-minh-cret-myxen-thien-nien-ky-iii-ii-tcn/#respond Fri, 16 Jul 2021 20:51:25 +0000 https://ngaydacbiet.com/van-minh-cret-myxen-thien-nien-ky-iii-ii-tcn/ Trước thập kỉ 70 của thế kỉ XIX, văn minh Crét – Myxen trong lịch sử Hi Lạp được biết đến quá sơ sài, mờ nhạt, chủ yếu dựa vào các truyền thuyết hoang đường và qua 2 tập sử thi Iliát – Ôđixê của Hôme. Cho tới những thập kỉ cuối cùng của thế […]

Bài viết Văn minh Crét – Myxen (thiên niên kỷ III – II TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Trước thập kỉ 70 của thế kỉ XIX, văn minh Crét – Myxen trong lịch sử Hi Lạp được biết đến quá sơ sài, mờ nhạt, chủ yếu dựa vào các truyền thuyết hoang đường và qua 2 tập sử thi Iliát – Ôđixê của Hôme. Cho tới những thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XIX, nhờ các kết quả của công tác khai quật khảo cổ của nhà khảo cổ học người Đức – Henrích Sơliman (1822 – 1890) – và nhà khảo cổ học người Anh – Actua Ivan (1851 -1941) – với các di chỉ thuộc thành Tơroa, Myxen, Tiranh và thành cổ Cơnôt (trên đảo Crét), lịch sử Hi Lạp từ thiên kỉ II đến thiên kỉ I TCN, dần dần được sáng tỏ. Trước khi các tộc người Hi Lạp chinh phục và làm chủ bán đảo Bancăng, cư dân ở vùng này và trên các đảo lớn, nhỏ (nhất là đảo Crét) đã xây dựng được một nền văn minh rực rỡ – Văn minh Crét – Myxen.

Crét là một đảo lớn ở phía nam biển Egie, còn Myxen là một địa danh thuộc vùng đồng bằng Pêlôpône. Năm 1900, Actua Ivan – nhà khảo cổ học người Anh – đã tiến hành khai quật nhiều đợt ở khu vực, theo truyền thuyết, vốn là thành cổ Cơnôt thuộc đảo Crét. Kết quả thật bất ngờ, Actua Ivan đã thu được nhiều hiện vật có giá trị, đặc biệt là di tích của thành Tơroa (ở Tiểu Á).

Vào năm 1873, Henrích Sơliman – nhà khảo cổ học người Đức – đã tới khai quật ở khu vực Pêlôpône. Ở Myxen, đon khảo cổ đã phát hiện được nhiều di vật quý, những thành lũy xây bằng đá, nhiều mộ táng có chôn theo vàng, bạc, đồ dùng quý báu. Năm 1885, Soliman lại phát hiện được ở Tiranh – một địa điểm cách không xa Myxen – một cung điện lộng lẫy có tường đá bao quanh với những bức bích họa sinh động.

Văn minh Crét từ thiên kỉ III TCN tới cuối thiên kỉ II TCN. Giai đoạn huy hoàng nhất thuộc các thế kỉ XVII, XVI, XV TCN. Văn minh Myxen từ cuối thiên kỉ III TCN – khi người Akêen từ phương Bắc thiên di xuống phía nam và định cư ở Pêlôpône – đến cuối thiên kỉ II TCN. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XII TCN, văn minh Myxen cũng đạt tới giai đoạn huy hoàng nhất.

Qua các hiện vật thu được, người ta thấy ở Crét-Myxen, kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi là hoạt động kinh tế chủ đạo của người Hi Lạp. Nông sản gồm các loại lúa mì, lúa mạch, các loại đậu, rau, quả, đặc biệt là nho và oliu. Gia súc được chăn nuôi chủ yếu là ngựa, lừa. Thủ công nghiệp cũng tương đối phát đạt. Các di vật ở cung điện thứ nhất, thứ hai của thành Cơnôt (văn minh Crét) cũng như ở Myxen cho thấy rằng nhiều ngành, nghề thủ công đã xuất hiện với các nghề : sản xuất đồ gốm, rèn, đồ trang sức, ép dầu, sản xuất rượu… Trên cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp, hoạt động thương mại của người Crét – Myxen cũng thành đạt, sản phẩm thủ công được trao đổi rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau với Nam Italia, đảo Xixin, Tiểu Á.

Tóm lại, văn minh Crét – Myxen là một nền văn minh của một xã hội có giai cấp, nhà nước, tương tự như các nền văn minh của các quốc gia cổ đại phương Đông. Nền văn minh này bị tàn tạ vào thiên kỉ II TCN, cùng với những cuộc thiên di lớn của các tộc người Hi Lạp từ phía bắc tràn xuống chinh phục và định cư.

Mặc dù về mặt thời gian, văn minh Crét xuất hiện sớm hơn văn minh Myxen, nhưng về nội dung lịch sử, cả 2 nền văn minh này có nhiều nét tương đồng, có nhiều điểm giống nhau, liên quan với nhau, nên thường được gặp lại và gọi chung là nền văn minh Crét – Myxen.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Văn minh Crét – Myxen (thiên niên kỷ III – II TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/van-minh-cret-myxen-thien-nien-ky-iii-ii-tcn/feed/ 0
Lịch sử Hi Lạp thời kỳ Hôme (từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN) https://ngaydacbiet.com/lich-su-hi-lap-thoi-ky-home-tu-the-ky-xi-den-the-ky-ix-tcn/ https://ngaydacbiet.com/lich-su-hi-lap-thoi-ky-home-tu-the-ky-xi-den-the-ky-ix-tcn/#respond Fri, 16 Jul 2021 20:09:03 +0000 https://ngaydacbiet.com/lich-su-hi-lap-thoi-ky-home-tu-the-ky-xi-den-the-ky-ix-tcn/ Lịch sử Hi Lạp từ thế kỉ XI đến thế kỉ IX TCN, thường được gọi là thời kì Hôme, vì trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của người Hi Lạp trong giai đoạn này được phản ánh rõ nét trong 2 tập sử thi Iliát và Ôđixê, tương truyền là sáng […]

Bài viết Lịch sử Hi Lạp thời kỳ Hôme (từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Lịch sử Hi Lạp từ thế kỉ XI đến thế kỉ IX TCN, thường được gọi là thời kì Hôme, vì trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của người Hi Lạp trong giai đoạn này được phản ánh rõ nét trong 2 tập sử thi Iliát và Ôđixê, tương truyền là sáng tác của nhà thơ Hôme ở Tiểu Á.

Sơ lược về sử thi Iliát và Ôđixê

Mặc dù đã trải qua nhiều cuộc tranh luận nhưng cho tới nay, vấn đề Hôme (bao gồm vấn đề nguồn gốc tác phẩm, tác giả, thời gian và địa điểm ra đời của 2 tập thơ…) vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn và triệt để, có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của Iliát và Ôđixê là nhà thơ mù thiên tài Hôme, sinh ở Tiểu Á. Nhiều người lại cho rằng Iliát – Ôđixê chỉ là những tập hợp, có chỉnh lí của những sáng tác dân gian truyền miệng, còn Hôme không phải là tên một người cụ thể, mà là một từ chung chỉ người mù “lliát – Ôđixê là sự tập hợp lại những bài ca của những người mù”.

liát là bản anh hùng ca chiến trận gồm khoảng 15.000 câu thơ, chia làm 24 khúc ca, kể lại cuộc chiến tranh giữa người Hi Lạp và người Tơroa ở vùng Tiểu Á. Ôđixê gồm hơn 12.000 câu thơ, cũng được chia thành 24 khúc ca, mô tả cuộc hành trình đầy gian truân của một người hùng Hi Lạp – Uylixơ hay Ôđixê.

Kinh tế Hi Lạp thời kỳ Hôme

Trong thời kì Hôme, công cụ sản xuất và vũ khí bằng đồng đã được sử dụng phổ biến. Trong cả 2 tập thơ, có tới 418 chỗ nhắc tới đồng thau, và 48 chỗ nhắc tới sắt. Hoạt động kinh tế chủ đạo của người Hi Lạp thời Hôme là kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi. Hoạt động chăn nuôi phổ biến tới mức mà người Hi Lạp thời Hôme đã dùng vật chăn nuôi để tỏ lòng mến khách, làm vật trao đổi, trong các buổi tế lễ thần linh hoặc làm thước đo giá trị: một cái chảo đồng cỡ lớn giá trị bằng 20 con bò đực, một nữ nô trả giá bằng 4 con bò.

Trong tập Iliát có nhiều đoạn mô tả cảnh sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp “những người thợ cầm hái sắc trong tay đang gặt, những lượm lúa trải đầy mặt ruộng, lượm nằm dọc luống cày, lượm đang được bó lại”. Ngoài cây lương thực, người Hi Lạp thời Hôme còn trồng cây ăn quả như cam, chanh, lê, táo và nhất là nho, oliu. Đoạn mô tả vườn quả trước cung điện của Anxiút – thủ lĩnh xứ Phêaxi trong Ôđixê của Hôme : “Ở gần cổng là một vườn cây ăn quả có hàng rào vây kín xung quanh, trong vườn cây mọc xanh tốt… Lê tiếp lê, táo tiếp táo, nho tiếp nho không ngừng… xa hơn nữa, sát rặng nho cuối cùng là những luống rau đủ loại xanh mướt quanh năm…”

Thủ công nghiệp của người Hi Lạp thời Hôme cũng có vị trí quan trọng và có những thành đạt với các nghề rèn, dệt vải, đóng tàu thuyền, xây dựng nhà ở… Nhìn chung, kinh tế Hi Lạp của thời Hôme là kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, trong đó chăn nuôi và trồng trọt là hai hoạt động kinh tế chủ đạo. Mặc dù thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp, nhưng kinh tế hàng hóa chưa phát triển, tiền tệ bằng kim loại chưa xuất hiện (trao đổi chủ yếu theo phương thức vật đổi vật, lấy gia súc làm vật trung gian, làm đơn vị giá trị), các thành thị với tư cách là trung tâm thủ công nghiệp và thương mại cũng chưa có.

Xã hội Hi Lạp thời kỳ Hôme

Iliát và Ôđixê cho ta biết rằng xã hội Hi Lạp thời Hôme không phải là sự tiếp nối của xã hội trước đó, xã hội của thời kì Crét – Myxen, xã hội Hi Lạp thời Hôme là xã hội thị tộc, bộ lạc ở giai đoạn mạt kì. Theo Enghen, đặc trưng cơ bản của nó là có sự tồn tại của chế độ dân chủ quân sự. Một xã hội được tổ chức theo lối vừa có những thủ lĩnh quân sự đầy quyền uy, vừa có sự tồn tại của các đại hội nhân dân.

Các thành viên thị tộc – theo truyền thống – được thị tộc phân chia cho những mảnh đất để trồng trọt và chăn nuôi. Do nhiều lý do khác nhau, một số trong họ buộc phải nhượng lại một phần hoặc toàn bộ số đất được chia để cuối cùng thành những nô lệ vì nợ, hoặc sống lang thang nhờ của bố thí.

Trong xã hội Hôme đã có nô lệ, số lượng chưa nhiều và thân phận cũng chưa bị đối xử tàn nhẫn như nô lệ ở các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Nô lệ thời Hôme chủ yếu là nô lệ chiến tù hoặc được mua từ nước ngoài về. Số nô lệ vì nợ đã có, nhưng chưa đông đảo. Giá nô lệ cũng còn khá cao (một nữ nô trẻ có giá bằng giá trị của 4 con bò). Sức lao động của nô lệ được sử dụng chủ yếu trong các gia đình giàu có nấu bếp, giữ ngựa, hầu rượu…

Nhìn chung, chế độ nô lệ của Hi Lạp thời Hôme mới chỉ là bước khởi đầu, sơ khai và mang nặng tính chất của chế độ nô lệ gia trưởng.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Lịch sử Hi Lạp thời kỳ Hôme (từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/lich-su-hi-lap-thoi-ky-home-tu-the-ky-xi-den-the-ky-ix-tcn/feed/ 0
Thời kì xuất hiện xã hội có giai cấp, nhà nước trong lịch sử Hi Lạp https://ngaydacbiet.com/thoi-ki-xuat-hien-xa-hoi-co-giai-cap-nha-nuoc-trong-lich-su-hi-lap/ https://ngaydacbiet.com/thoi-ki-xuat-hien-xa-hoi-co-giai-cap-nha-nuoc-trong-lich-su-hi-lap/#respond Fri, 16 Jul 2021 19:28:38 +0000 https://ngaydacbiet.com/thoi-ki-xuat-hien-xa-hoi-co-giai-cap-nha-nuoc-trong-lich-su-hi-lap/ Những biến chuyển lớn ở Hi Lạp sau thời kỳ Hôme Kinh tế và xã hội Hi Lạp sau thời kỳ Hôme có nhiều biến chuyển. Trước hết phải kể tới những biến chuyển trong lĩnh vực kinh tế. Kinh tế: thủ công nghiệp phát triển Nhờ nguồn nguyên liệu phong phú và kĩ thuật […]

Bài viết Thời kì xuất hiện xã hội có giai cấp, nhà nước trong lịch sử Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Những biến chuyển lớn ở Hi Lạp sau thời kỳ Hôme

Kinh tế và xã hội Hi Lạp sau thời kỳ Hôme có nhiều biến chuyển. Trước hết phải kể tới những biến chuyển trong lĩnh vực kinh tế.

Kinh tế: thủ công nghiệp phát triển

Nhờ nguồn nguyên liệu phong phú và kĩ thuật luyện kim phát triển, đồ sắt đã được dùng một cách phổ biến trong đời sống thường ngày, trong nông nghiệp, thủ công nghiệp, quân sự… Cán cân kinh tế trong sự phát triển của các ngành, nghề đã thay đổi.

Nếu trước kia, chăn nuôi là ngành kinh tế có địa vị cao thì từ thế kỉ VII TCN, nông nghiệp của người Hi Lạp đã vươn lên.

Thủ công nghiệp hoàn toàn tách khỏi nông nghiệp và đạt được những thành tựu lớn. Số lượng ngành, nghề thủ công tăng lên, kĩ thuật sản xuất tiến bộ. Ở một số ngành nghề và một số địa phương đã có sự phân công chuyên môn hóa (Cơrinh chuyên đóng thuyền buồm, thuyền chiến ; Milê nổi tiếng trong nghề gia công kim loại, dệt ; Mêga là thành phố trung tâm của kĩ nghệ len, dạ…).

Sự phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp đã thúc đẩy hoạt động thương mại và mậu dịch hàng hải của người Hi Lạp. Nhiều thành thị với tư cách là những trung tâm thủ công nghiệp và buôn bán đã xuất hiện, tiền tệ bằng kim loại ra đời thay cho lối buôn bán vật đổi vật xưa kia.

– Sự tan rã của chế độ thị tộc đã diễn ra nhanh chóng.

Những biến chuyển về mặt xã hội

Sự phân hoá giai cấp xã hội xuất hiện

Chế độ tư hữu ngày càng lấn át quyền sở hữu công cộng của thị tộc. Tầng lớp quý tộc giàu có nắm trong tay nhiều tư liệu sản xuất và sống dựa vào sức lao động của dân nghèo, nô lệ đã xuất hiện. Đó chính là những tiền thân của tầng lớp quý tộc chủ nô ruộng đất của Hi Lạp sau này.

Cùng với sự phát triển của thủ công nghiệp, buôn bán, một tầng lớp người mới (tuy không xuất thân từ quý tộc thị tộc) nhưng lại giàu có, nắm trong tay họ những hoạt động kinh tế Công thương nghiệp. Đó là tiền thân của những quý tộc chủ nô Công thương: tầng lớp có thế lực nhất cả về kinh tế và chính trị trong giới quý tộc chủ nô Hi Lạp trong suốt chiều dài lịch sử Hi Lạp.

Những thành viên của xã hội thị tộc cũ bị phân hóa sâu sắc. Một số hoàn toàn bị tước đoạt ruộng đất phải bán thân làm nô lệ vì nợ. Số đông khác, hoặc có ít, hoặc không có tư liệu sản xuất phải nhận lĩnh canh ruộng đất (với mức tô thường tới 4/5 thu hoạch) hoặc làm thuê trên các đồng ruộng, trong các xưởng thủ công. Tất cả tạo ra tầng lớp người bình dân – Đêmốt – với những quyền lợi và nguyện vọng khác nhau trong lịch sử Hi Lạp.

Lực lượng xã hội thứ ba là những nô lệ Hi Lạp. Chế độ tư hữu phát triển mạnh đã làm tăng số lượng nô lệ trong xã hội Hi Lạp, nguồn nô lệ cũng phong phú hơn, ngoài số nô lệ chiến tù, trong xã hội đã xuất hiện nhiều nô lệ vì nợ và những nô lệ được mua từ ngoài vào. Việc buôn bán nô lệ cũng đã hình thành. Ngay từ thế kỉ VI TCN, đảo Kiốt đã có những chợ buôn bán nô lệ. Vì vậy, tính chất gia trưởng của chế độ nô lệ thời Hôme cũng dần dần mất đi.

Như vậy, xã hội Hi Lạp sau thời kỳ Hôme đã có những biến chuyển thay đổi lớn, sự phân hóa giai cấp đã diễn ra sâu sắc, 3 tầng lớp xã hội đã hình thành khá rõ nét : Quý tộc (ruộng đất và công thương), những người bình dân Đêmốt và những nô lệ. Mâu thuẫn xã hội ngày một sâu sắc. Sự đối kháng giai cấp dần dần tới tình trạng không thể điều hòa được, và đúng như nhận xét của Eghen, nhà nước đã ra đời “không những để bảo vệ những của cải mà các tư nhân vừa mới có được khỏi bị những truyền thống của chế độ thị tộc xâm phạm mà còn kéo dài quyền của giai cấp hữu sản bóc lột giai cấp không có của và quyền thống trị của giai cấp hữu sản đối với giai cấp không có của…”

Phong trào tìm đất thực dân diễn ra ồ ạt

Một biến chuyển quan trọng nữa trong xã hội Hi Lạp sau thời kì Hôme là phong trào tìm đất thực dân của người Hi Lạp diễn ra ồ ạt từ thế kỉ VIII TCN.

Trong lịch sử Hi Lạp, vào thời điểm lịch sử của những thế kỉ VIII – VI TCN, hệ thống đất thực dân đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội Hi Lạp. Hệ thống đất thực dân này đã thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế (nhất là kinh tế Công thương nghiệp của các quốc gia thành thị Hi Lạp, cung cấp cho chính quốc một số lượng đáng kể và quan trọng về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu đồng thời lại là thị trường tiêu thụ sản phẩm công thương nghiệp của Hi Lạp. Do vậy, kinh tế Công thương nghiệp Hi Lạp có điều kiện phát triển, phá hoại nhanh chóng nền kinh tế tự nhiên, xúc tiến và tăng cường quá trình phân hóa giai cấp tạo cơ sở phá vỡ tổ chức thị tộc và tăng cường quá trình xây dựng xã hội có giai cấp nhà nước của người Hi Lạp.

Hệ thống đất thực dân cũng đã tăng cường thế lực cho tầng lớp quý tộc chủ nô Công thương. Và chính vì vậy, trong suốt tiến trình lịch sử Hi Lạp, tầng lớp quý tộc chủ nô công thương luôn luôn có ưu thế (cả về kinh tế và chính trị) so với tầng lớp quý tộc chủ nô ruộng đất.

Hệ thống đất thực dân Hi Lạp cũng đã tạo nên một cầu nối gắn liền thế giới Hi Lạp với các nền văn minh cổ đại ở cả phương Tây và phương Đông.

Văn minh Hi Lạp được truyền bá và ngược lại, Hi Lạp có điều kiện thuận lợi tiếp xúc và tiếp thu những thành tựu của các nền văn minh khác (chữ viết, văn học, triết học, khoa học kĩ thuật, lịch pháp và thiên văn…). Đó là chưa kể chính các đất thực dân ngay từ buổi đầu đã cung cấp cho Hi Lạp một nguồn nô lệ đáng kể, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ nô lệ sau này.

Sự xuất hiện các quốc gia thành thị Hi Lạp

Sự hình thành nhà nước ở Hi Lạp có những sắc thái riêng rất Hi Lạp.

Trước hết, nhà nước Hi Lạp xuất hiện trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc và hầu như không có sự can thiệp của bạo lực từ phía ngoài. Chế độ tự hữu được thiết lập và phát triển, sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc, triệt để đã làm cho xã hội thị tộc dần dần tan vỡ từng bước một.

Thứ hai: Nhà nước Hi Lạp xuất hiện dưới dạng những quốc gia thành thị – quốc gia thành bang (polis). Điều này có được là do những đặc trưng riêng và điều kiện tự nhiên và xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Công thương nghiệp và mậu dịch hàng hải của chính Hi Lạp. Trong những điều kiện đó lại không bị các thế lực bên ngoài tấn công, can thiệp, nên ngay từ đầu và trong suốt chiều dài lịch sử, yêu cầu thống nhất các vùng đất Hi Lạp (vốn bị điều kiện địa hình tự nhiên xé nhỏ) thành một quốc gia thống nhất không được đặt ra một cách bức thiết. Do vậy, nhà nước ở Hi Lạp, về cơ bản, là những quốc gia thành bang, có những sắc thái riêng, có sự phát triển khá chênh lệch, và cũng có những vận mệnh lịch sử khác nhau.

Tiếng Hi Lạp, thành bang – “polis” – có nghĩa là thành phố. Cho nên hạt nhân cơ bản của mỗi quốc gia thành bang là một thành thị với tư cách vừa là trung tâm chính trị, vừa là trung tâm kinh tế công thương nghiệp, có kết hợp và mở rộng với các vùng phụ cận. Diện tích của một thành bang không lớn (lớn nhất cũng không quá 8000 km2) với một lượng cư dân vừa phải (khoảng từ 30 – 40 vạn người).

Mặc dù nhỏ, hẹp về diện tích, dân cư chưa đông, nhưng mỗi thành bang đều có những đặc trưng của một nhà nước hoàn chỉnh: Có đường biên giới lãnh thổ, có chính quyền, quân đội, luật pháp, hệ thống kinh tế, đo lường, tiền tệ riêng và cũng có những thần bảo hộ riêng. Mỗi thành bang có xu thế phát triển kinh tế khác nhau và vận mệnh lịch sử cũng không hoàn toàn giống nhau. Mặc dù đều là nền chuyên chính của giai cấp quý tộc chủ nô, nhưng thiết chế chính trị, tổ chức nhà nước ở mỗi thành bang cũng không nhất loạt như nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có thành bang xây dựng theo thể chế cộng hòa quý tộc (tiêu biểu là Xpác), có thành bang lại tổ chức theo thể chế cộng hòa dân chủ (điển hình là Aten).

Trong lịch sử Hi Lạp, các quốc gia thành bang đều xuất hiện, sớm hoặc muộn, trong khoảng thời gian từ thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ VI TCN. Điển hình nhất cho các quốc gia thành thị ở Hi Lạp là Xpác (ở bán đảo Pêlôpône) và Aten (ở bán đảo Attích). Đây là hai quốc gia thành bang đại diện 2 con đường khác nhau trong quá trình xây dựng nhà nước, sự phát triển kinh tế, cơ cấu xã hội và thiết chế nhà nước. Xpác và Aten cũng là 2 thành bang nòng cốt của lịch sử Hi Lạp.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Thời kì xuất hiện xã hội có giai cấp, nhà nước trong lịch sử Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/thoi-ki-xuat-hien-xa-hoi-co-giai-cap-nha-nuoc-trong-lich-su-hi-lap/feed/ 0
Thành bang Xpác trong lịch sử Hi Lạp https://ngaydacbiet.com/thanh-bang-xpac-trong-lich-su-hi-lap/ https://ngaydacbiet.com/thanh-bang-xpac-trong-lich-su-hi-lap/#respond Fri, 16 Jul 2021 18:46:14 +0000 https://ngaydacbiet.com/thanh-bang-xpac-trong-lich-su-hi-lap/ Xpác là một thành bang Hi Lạp được xây dựng sớm nhất trong lịch sử Hi Lạp (ngay từ thế kỉ IX TCN). Nằm trên đồng bằng Lacôni thuộc phía nam Pêlôpône, Xpác có lợi thế để phát triển kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi. Đồng bằng Lacôni được tạo nên bởi sông Ơrôtát […]

Bài viết Thành bang Xpác trong lịch sử Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Xpác là một thành bang Hi Lạp được xây dựng sớm nhất trong lịch sử Hi Lạp (ngay từ thế kỉ IX TCN). Nằm trên đồng bằng Lacôni thuộc phía nam Pêlôpône, Xpác có lợi thế để phát triển kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi. Đồng bằng Lacôni được tạo nên bởi sông Ơrôtát (Eurotas) với những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu, xung quanh lại có những dãy núi cao che chắn, bảo vệ. Lacôni lại là nơi có trữ lượng sắt vào loại nhất của lục địa Hi Lạp.

Về mặt xã hội, ở Xpác có 3 tập đoàn người cùng sinh sống nhưng quyền lợi và nghĩa vụ hoàn toàn khác nhau.

Giai cấp cầm quyền – Người Xpác

Người Xpác – tức người Đôrien chiến thắng là giai cấp cầm quyền. Họ không tham gia các hoạt động sản xuất (không làm ruộng, không làm thợ thủ công và cũng không tham gia buôn bán). Họ sống bằng sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người Pêriét và nô lệ Hilốt. Người Xpác chỉ có chức năng, cai trị và tham gia vào lực lượng quân đội (để xâm lược hoặc bảo vệ đất nước). Chính vì vậy ở Xpác, chế độ tư hữu không tồn tại. Toàn bộ ruộng đất, đồng cỏ và cả tập thể nô lệ Hilốt đều là sở hữu chung của những cư dân Xpác – Đôrien.

Nhà nước Xpác đem toàn bộ ruộng đất chia thành khoảng 10.000 mảnh đất bằng nhau, mỗi khoảnh độ 20 ha, cùng với số lượng người Hilốt và Pêriét, cho mỗi gia đình người Đôrien. Những gia đình được phép hưởng số thu hoạch, nhưng không được quyền chiếm hữu số ruộng đó và số nô lệ canh tác, không được phép bán, chuyển nhượng vì ruộng đất và nô lệ là sở hữu chung của nhà nước. Ở Xpác không tồn tại chế độ tư hữu ruộng đất và nô lệ.

Giai cấp bị nô dịch

Người Pêtiét

Người Pêriét lúc đầu là những người Akêen chiến bại, bị nô dịch (về sau thêm một số cư dân ở nơi khác tới Xpác sinh sống), tất cả có khoảng 30.000 người. Luật pháp Xpác coi người Periét là người tự do, nhưng phải thực hiện nghĩa vụ tham gia các hoạt động kinh tế (nông nghiệp, thủ công nghiệp, chăn nuôi, buôn bán) nộp thuế để nuôi người Xpác – Đôrien. Ngoài ra họ cũng phải tham gia quân đội được phiên chế thành những đơn vị riêng. Họ không được hưởng quyền chính trị, không được phép kết hôn với người Đôrien.

Người Hilốt

Người Hilốt có khoảng 200.000 người, chiếm tỉ lệ đông nhất trong đám dân cư ở Xpác. Hilốt là nô lệ chung của nhà nước. Họ bị chia theo những khoảng ruộng đất mà nhà nước phân chia cho người Đôrien, bị gắn chặt vào ruộng đất, phải lao động sản xuất và được hưởng một phần thu hoạch. Do vậy, khác Aten, nô lệ Hilốt ở Xpác không có quyền lợi chính trị, thân thể, tư pháp nhưng lại được phép có gia đình riêng, có thu nhập riêng, lệ thuộc vào chủ nô, nhưng lại là tài sản chung của nhà nước. Rõ ràng ở Xpác, Hilốt là một loại nô lệ đặc biệt, bị sử dụng và bóc lột theo kiểu riêng, rất Xpác.

Người Periét và nô lệ Hilốt là lực lượng sản xuất chính của xã hội Xpác, là đối tượng bóc lột cơ bản. Do vậy ngay từ đầu, mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị Đôrien – Xpác với 2 tầng lớp xã hội này đã xuất hiện và ngày một sâu sắc. Giai cấp thống trị Xpác đã thẳng tay dùng bạo lực để trấn áp.

Tóm lại, Xpác là một thành bang ở Hi Lạp, lạc hậu về kinh tế, bảo thủ và phản động về chính trị, một nhà nước quân phiệt. Xpác là dinh luỹ của các thế lực bảo thủ, kìm hãm xu hướng dân chủ của các thành bang Hi Lạp. Là nơi tập kết, điểm cư trú chính trị của các chính khách Aten chủ trương duy trì nền chính trị bảo thủ, kẻ thù của nền dân chủ Aten.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Thành bang Xpác trong lịch sử Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/thanh-bang-xpac-trong-lich-su-hi-lap/feed/ 0
Sự ra đời Nhà nước dân chủ chủ nô Aten (thế kỉ VII – thế kỉ VI TCN) https://ngaydacbiet.com/su-ra-doi-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-the-ki-vii-the-ki-vi-tcn/ https://ngaydacbiet.com/su-ra-doi-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-the-ki-vii-the-ki-vi-tcn/#respond Fri, 16 Jul 2021 17:12:22 +0000 https://ngaydacbiet.com/su-ra-doi-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-the-ki-vii-the-ki-vi-tcn/ Aten là quốc gia thành thị xuất hiện trên vùng bán đảo Attích (thuộc Trung Hi Lạp). Đó là một vùng đồng bằng hẹp đất đai không phì nhiêu, nhiều đồi núi, khí hậu lại khô khan, lượng mua hàng năm không đáng kể. Attích có nhiều đá quý, mỏ sắt, mỏ bạc, đất sét […]

Bài viết Sự ra đời Nhà nước dân chủ chủ nô Aten (thế kỉ VII – thế kỉ VI TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Aten là quốc gia thành thị xuất hiện trên vùng bán đảo Attích (thuộc Trung Hi Lạp). Đó là một vùng đồng bằng hẹp đất đai không phì nhiêu, nhiều đồi núi, khí hậu lại khô khan, lượng mua hàng năm không đáng kể. Attích có nhiều đá quý, mỏ sắt, mỏ bạc, đất sét chất lượng cao và vùng bờ biển dài với nhiều vịnh và hải cảng thuận tiện cho hoạt động thương mại. Nhìn chung, thiên nhiên xứ Attích không tạo nên những điều kiện thuận cần thiết cho sự phát triển và canh tác cây lương thực, nhưng lại rất thích hợp cho sự phát triển của một nền kinh tế Công thương nghiệp và mậu dịch hàng hải.

Điều kiện hình thành nhà nước Aten

Cư dân sống trên bán đảo Attích là nhánh người Hi Lạp – người Iônien. Trước khi nhà nước ra đời, các cư dân này vẫn còn đang sống trong giai đoạn mạt kì của xã hội thị tộc. Có 4 bộ lạc, mỗi bộ lạc bao gồm 30 thị tộc, cư trú ở 4 khu vực khác nhau. Theo truyền thống, Đại hội nhân dân vẫn là cơ quan có quyền lực cao nhất quyết định các vấn đề hệ trọng của mỗi bộ lạc. Ngoài ra, mỗi bộ lạc đều có một hội đồng quý tộc (gồm các tộc trưởng của 30 thị tộc) và một thủ lĩnh quân sự – người Hi Lạp gọi là Badilơ (Basilêus), do Đại hội nhân dân bầu ra, phụ trách quân sự, xét xử các vụ kiện tụng và tổ chức các buổi tế lễ tôn giáo.

Theo thời gian và cùng với sự phát triển của nền kinh tế Công thương nghiệp, ranh giới ngăn chặn giữa các thị tộc, bộ lạc dần dần bị xoá nhoà. Cư dân của 4 bộ lạc đã sống đan xen nhau, mối quan hệ huyết thống lỏng lẻo dần. Kết quả là 4 bộ lạc ở xứ Attích đã tập hợp lại thành một liên minh bộ lạc, lấy Aten làm thủ phủ. Những điều kiện và tiền đề cho việc xuất hiện xã hội có giai cấp, nhà nước đã chín muồi.

Đặc trưng của nhà nước Aten

Sự hình thành nhà nước Aten có những đặc trưng riêng biệt.

  • Thứ nhất, Nhà nước Aten ra đời trong bối cảnh lịch sử hoàn toàn không có sự can thiệp, xâm lược của các thế lực bên ngoài. Nhà nước Aten xuất hiện trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc của chính cư dân vùng Attích.
  • Thứ hai, Nhà nước Aten xuất hiện không phải là kết quả của các cuộc chiến tranh, xung đột, đổ máu, mà nó được hình thành một cách hòa bình dần dần, từng bước hoàn thiện thông qua hàng loạt các cuộc cải cách xã hội, từ cải cách đầu tiên của Tede, đến những cải cách cuối cùng của Pericolet. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy bị đẩy lùi và bị thủ tiêu một cách triệt để.
  • Thứ ba, Nhà nước Aten được xây dựng và hoàn thiện theo hướng xây dựng thiết chế nhà nước dân chủ chủ nô – một thể chế hết sức đề cao và đảm bảo những quyền lợi kinh tế, chính trị của những công dân tự do.

Những cải cách của Tedê

Người đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước Aten, theo truyền thuyết, là Tedê (Thésée).

Thiết lập liên minh bộ lạc

Công lao lớn của Tedê là đã thiết lập được liên minh 4 bộ lạc (vốn sống ở 4 khu vực khác nhau) theo nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng. Thiết lập được một cơ quan quản lí chung thay cho 4 cơ quan quản lý thị tộc cũ, Tedê đã chia toàn xứ Attích thành 48 địa khu, người Aten gọi là 48 nôcơrari, mỗi bộ lạc cũ được chia thành 12 nôcơrari. Lần đầu tiên, xứ Attích được phân chia thành những khu vực hành chính với số cư dân được phân chia theo những địa vực cư trú.

Tedê đã chia toàn thể cư dân Aten – Vốn xưa kia là các thành viên bình đẳng thuộc 4 bộ lạc cũ – thành 3 tầng lớp người có quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau: quý tộc, nông dân và những thợ thủ công. Tedê là người đầu tiên thiết lập trật tự xã hội mới ở Aten: trật tự của một xã hội có giai cấp.

Với những cải cách của mình, Tedê cũng đã bước đầu tấn công vào chế độ thị tộc. Đại hội nhân dân xưa vẫn tồn tại, nhưng quyền lực thực thực tế nằm trong một tổ chức – Hội đồng trưởng lão (Arêôpagiơ) – gồm những đại biểu của tầng lớp quý tộc. Hội đồng trưởng lão có quyền lập pháp, tư pháp, giám sát và quyết định mọi công việc hệ trọng của đất nước. Chức vụ Balilo bị bãi miễn thay bằng 9 viên quan chấp chính (được cử ra từ tầng lớp quý tộc). Aten sau Tedê là nhà nước theo thiết chế cộng hòa quý tộc. Chế độ thị tộc bước đầu bị tấn công và giải thể.

Đấu tranh dân chủ hoá

Sự phát triển của nền kinh tế, nhất là kinh tế Công thương nghiệp đã làm thay đổi cơ cấu xã hội Aten: Tầng lớp quý tộc chủ nô công thương hình thành có quyền lợi gắn bó với kinh tế Công thương và một khuynh hướng chính trị muốn dân chủ hóa bộ máy nhà nước, thủ tiêu đặc quyền của tầng lớp quý tộc thị tộc.

Bên cạnh đó, những nông dân tự do bị kiêm tinh ruộng đất, những nô lệ và những kiều dân Mêtec không có quyền lợi chính trị cũng tăng cường đấu tranh đòi hỏi quyền lợi và thực hiện cải cách xã hội. Thực trạng xã hội ấy đã dẫn đến cuộc chính biến xảy ra năm 630 TCN, do Xilông thực hiện. Cuộc chính biến thất bại, phong trào dân chủ vẫn âm ỉ, năm 621 TCN, quan chấp chính Đracông đã soạn thảo và ban hành luật pháp thành văn – Luật Đracông – Luật Đracông nổi tiếng là bộ luật hà khắc (ăn cắp vặt, kể từ rau, quả, cũng bị xử tử hình). Bộ luật được khắc trên nhiều tấm đá và đặt ở những nơi công cộng, nhờ vậy cũng đã hạn chế được phần nào sự xét xử độc đoán, tuỳ tiện và bất công của quý tộc đánh dấu một bước tiến của nền dân chủ.

Những cải cách của Xôlông

Năm 594 TCN, Xôlông được cử giữ chức vụ chấp chính quan. Để hạn chế tới mức tối đa những mâu thuẫn trong xã hội, để tiếp tục tấn công vào chế độ thị tộc và tiếp tục xây dựng, củng cố nhà nước Aten theo hướng dân chủ, Xôlông đã thực hiện một loạt những cải cách xã hội tiến bộ. Người Hi Lạp gọi những cải cách của Xôlông là “Sêsasơchêia” có nghĩa là “trút bỏ gánh nặng”.

Cải cách Sêsasơchêia

Xôlông tuyên bố xoá bỏ mọi nợ nần, những ruộng đất của nông dân đem nộp cho quý tộc để gán nợ được hoàn trả cho nông dân. Những nông dân phải bán mình làm nô lệ vì nợ được giải phóng khỏi thân phận nô lệ thành người tự do. Nhà nước cấm tuyệt đối việc lấy thân mình hoặc vợ con mình làm vật để trừ nợ (kể cả việc kí văn tự vay nợ lấy bản thân con nợ làm vật thế chấp). Chế độ nô lệ vì nợ ở Aten chấm dứt từ đó.

Xôlông cũng thực hiện việc cải cách hệ thống tiền tệ, cấm xuất khẩu nông sản (trừ nho và ôliu), thừa nhận quyền tư hữu, tự do chuyển nhượng tài sản.

Để bảo vệ quyền sở hữu với số lượng ruộng đất vốn đã quá ít của người bình dân, ngăn chặn nạn kiêm tinh ruộng đất, Xôlông đã đưa ra quy định mức chiếm hữu ruộng đất tối đa cho một quý tộc. Để tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, Xôlông đã đưa ra hàng loạt biện pháp tích cực: khuyến khích việc sử dụng thợ thủ công giỏi ở nước ngoài, thực hành tiết kiệm, khuyến khích khẩn hoang…

Phân chia đẳng cấp

Căn cứ theo tài sản, Xôlông đã phân chia cư dân Aten không kể nguồn gốc huyết tộc, thành 4 đẳng cấp xã hội có quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau.

  • Đẳng cấp thứ nhất bao gồm những công dân hàng năm có thu nhập từ 500 Mêđim thóc trở lên.
  • Đẳng cấp thứ hai có thu nhập từ 300 Mêđim thóc trở lên.
  • Đẳng cấp thứ ba là 200 Mêđim thóc
  • Còn những ai có thu nhập dưới 200 MêKim thuộc đẳng cấp thứ 4.

Theo quy định, chỉ có những người thuộc đẳng cấp thứ nhất mới có đủ tư cách tham gia giữ các chức vụ cao cấp của nhà nước (chấp chính quan hoặc là thành viên của hội đồng trưởng lão…). Trong quân đội, những người thuộc đẳng cấp 1, 2 được phép tham gia vào những đội kị binh, còn đẳng cấp 3, 4 chỉ được tham gia bộ binh, đẳng cấp thứ tư chỉ được tham gia đại hội nhân dân để bầu cử những quan chức của bộ máy nhà nước.

Thành lập “Hội đồng 400 người”

Trên cơ sở 4 bộ lạc cũ, Xôlông thành lập “Hội đồng 400 người” mỗi bộ lạc được cử 100 người thuộc 3 đẳng cấp trên. Hội đồng 400 người có chức năng như là một cơ quan thường trực của đại hội nhân dân, để giải quyết các công việc hàng ngày của nhà nước. Để tránh lối xử án tuỳ tiện và tăng cường tính dân chủ, Xôlông đã cho thành lập toà án nhân dân có nhiều bồi thẩm, cùng thảo luận, xét xử.

Kết luận

Mặc dù những tàn dư của chế độ thị tộc vẫn còn nhưng trước hết phải thấy rằng những cải cách của Xôlông đã giáng một đòn khá mạnh (và triệt để hơn so với Tedê) vào chế độ thị tộc, căn bản thủ tiêu quyền lực của quý tộc thị tộc, bước đầu thiết lập được một trật tự xã hội mới theo thể chế dân chủ. Cải cách Xôlông – theo nhận xét của F.Enghen – phần nào đã hi sinh quyền lợi của tầng lớp quý tộc (nhất là quý tộc ruộng đất), tạo điều kiện cho tầng lớp bình dân duy trì được cuộc sống của họ, ngăn cản sự phá sản của nông dân và thủ tiêu chế độ nô lệ vì nợ, tạo cơ sở xã hội cho sự tồn tại của thể chế dân chủ. Cải cách Xôlông cũng đem lại nhiều quyền lợi và ưu thế cho quý tộc chủ nô công thương – tầng lớp quý tộc ủng hộ thể chế dân chủ – tạo điều kiện cho kinh tế Công thương nghiệp của Aten phát triển mạnh mẽ.

Những cải cách tiến bộ của Xôlông đã tạm thời giải quyết được những vấn đề cấp bách mà xã hội Aten đang gặp phải, xoa dịu được mâu thuẫn và đặt nền móng cho việc thiết lập, hoàn thiện nhà nước Aten theo hướng dẫn chủ hóa.

Những cải cách của Clixten

Năm 508 TCN, nhờ phong trào nổi dậy của quần chúng chống xu thế bảo thủ, Clixten – thủ lĩnh của phái Duyên hải – được cử giữ chức chấp chính quan thứ nhất. Nền dân chủ lại được phục hưng. Từ năm 508 đến năm 506 TCN, Clixten đã thực hành hàng loạt những cải cách xã hội nhằm mục tiêu thủ tiêu những tàn tích của chế độ thị tộc, hoàn thiện thêm một bước nền dân chủ chủ nô Aten.

Phân chia cư dân theo khu vực hành chính

Cải cách quan trọng nhất, triệt để nhất của Clixten là việc phân chia cư dân Aten theo những khu vực hành chính (không dựa vào khu vực cư trú của 4 bộ lạc cũ). Toàn bộ xứ Attích được chia thành 10 khu hành chính. Người Hi Lạp gọi là Philai. Mỗi khu Philai được chia thành 10 tiểu khu (Đemơ).

Cư dân sống ở mỗi tiểu khu phải đăng kí vào Sổ hộ tịch để nhà nước theo dõi, quản lí. Lối gọi tên người theo dòng họ thị tộc bị bác bỏ thay bằng lối gọi theo tên riêng từng người. Thế là với Clixten, ranh giới, bộ lạc (cùng với thế lực của tập đoàn quý tộc thị tộc) bị xoá bỏ hẳn. Tàn tích cuối cùng của chế độ thị tộc bị thủ tiêu.

Cải cách bộ máy nhà nước Aten – Hội đồng 500

Clixten đã cải tổ các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước Aten, theo hướng dân chủ. Hội đồng 400 người bị bác bỏ thay bằng Hội đồng 500 người – Người Hi Lạp gọi là Bulê – Theo quy chế, tất cả các công dân tự do nam giới Aten, tuổi từ 18 đều có quyền tham gia Hội đồng 500 người, và mỗi Philai, được bầu 50 người. Bulê là cơ quan hành chính cao nhất ở Aten, thay mặt toàn thể công dân, thường trực các công việc của nhà nước trong suốt một năm. Bulê cũng có nhiệm vụ kiểm tra tư cách công dân và tư cách các thành viên trong bộ máy nhà nước. 500 người của Bulê được phân chia trong 10 uỷ ban thường trực – Pơritani – Mỗi Pơritani gồm 50 người của cùng một khu Philai với nhiệm kì 1/10 của năm (khoảng từ 36 đến 39 ngày) và có chức năng như một bộ phận thường trực thay mặt Bulê giải quyết các công việc hàng ngày.

Tăng cường vài trò hội đồng nhân dân

Clixten đã tăng cường vai trò của đại hội nhân dân. Đại hội nhân dân (Eccalêdia) là cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước Aten. Eccơlêdia là đại hội của toàn thể công dân Aten từ 18 tuổi trở lên. Có quyền thảo luận và biểu quyết tất cả những vấn đề hệ trọng của đất nước, thông qua hay phủ quyết các dự luật, chính sách của hội đồng Bulê, chọn cử những viên chức của bộ máy nhà nước. Clixten đã tăng số quan chức Aten lên 20 người, gồm 10 quan chấp chính và 10 tư lệnh quân sự.

Để ngăn chặn những âm mưu đảo chính hoặc phá hoại nền dân chủ, Clixten đã cho thực hành “chế độ bỏ phiếu bằng vỏ sò”. Bất kì công dân Aten nào (kể cả những người đang có chức vụ) nếu bị nghi ngờ là có những âm mưu, hành vi đe dọa tới nền an ninh xã hội, nền dân chủ thì trong đại hội nhân dân, toàn thể Công dân tự do Aten sẽ tiến hành bỏ phiếu kín, bằng cách ghi tên người mà họ nghi ngờ lên các mảnh vỏ sò hay mảnh gốm. 6.000 lá phiếu cùng ghi tên một người, thì 10 ngày sau người đó buộc phải rời khỏi Aten trong thời hạn là 10 năm. Bằng biện pháp này, Aten đã có khả năng ngăn chặn những âm mưu phản loạn, ngăn cản xu thế độc tài, quân phiệt.

Clixten cũng đã thực hiện việc giải phóng một số nô lệ có công thành người tự do (nhưng không được quyền công dân) và cho phép một số kiều dân Mêtéc) có công lao thành công dân tự do Aten.

Kết luận

Có thể nhận xét, với những cải cách tiến bộ và mạnh mẽ, Clixten đã hoàn toàn thủ tiêu những tàn tích cuối cùng của chế độ thị tộc, đánh dấu bước cuối cùng trong việc xây dựng nhà nước dân chủ chủ nô Aten. Những cải cách của Clixten đã tạm thời hòa hoãn được những xung đột và thỏa mãn hầu hết các quyền lợi của các phe phái tạo nên Aten một khối công dân tự do có quyền lợi chính trị ngang nhau, cùng thống trị, bóc lột sức lao động của nô lệ.

Cải cách Clixten cũng đã mở đường cho nền kinh tế nói chung và kinh tế Công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, tạo ra một Aten hùng cường về kinh tế, quân sự và tiến bộ về thể chế dân chủ, góp phần giúp Aten chiến thắng sự can thiệp, xâm lược của đế quốc Ba Tư trong thế kỉ tiếp sau.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Sự ra đời Nhà nước dân chủ chủ nô Aten (thế kỉ VII – thế kỉ VI TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/su-ra-doi-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-the-ki-vii-the-ki-vi-tcn/feed/ 0
Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư (492 – 448 TCN) https://ngaydacbiet.com/chien-tranh-hi-lap-ba-tu-492-448-tcn/ https://ngaydacbiet.com/chien-tranh-hi-lap-ba-tu-492-448-tcn/#respond Fri, 16 Jul 2021 16:15:41 +0000 https://ngaydacbiet.com/chien-tranh-hi-lap-ba-tu-492-448-tcn/ Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư là một trong hai cuộc chiến lớn nhất xảy ra trong lịch sử Hi Lạp nói chung và Aten nói riêng. Thắng lợi cuối cùng thuộc về người Hi Lạp. Thắng lợi của người Hi Lạp trước đế quốc Ba Tư hùng cường đã dọn đường cho Hi […]

Bài viết Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư (492 – 448 TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư là một trong hai cuộc chiến lớn nhất xảy ra trong lịch sử Hi Lạp nói chung và Aten nói riêng. Thắng lợi cuối cùng thuộc về người Hi Lạp. Thắng lợi của người Hi Lạp trước đế quốc Ba Tư hùng cường đã dọn đường cho Hi Lạp nói chung và Aten nói riêng bước vào thời kì phát triển cực thịnh, đạt tới điểm đỉnh của chế độ chiếm nô ở khu vực Địa Trung Hải, điểm đỉnh của nền văn minh cổ đại.

Nguyên nhân

Nguyên nhân sâu xa

Đế quốc Ba Tư là một đế quốc hùng cường ở Tây Á được thiết lập từ giữa thế kỉ VI TCN, dưới thời vua Xirút (558 – 529 TCN). Tới thời kì trị vì của vua Đariut I (521 – 485 TCN) cương vực lãnh thổ của Ba Tư đã hết sức rộng lớn. Bao gồm hàng loạt những trung tâm văn minh của thế giới cổ đại phương Đông: phía bắc tới tận biển Caxpiên, Hắc Hải, phía nam tiếp giáp với vịnh Pécxích (gồm cả Ai Cập), phía đông giáp sông Ấn và phía tây tiếp giáp với các thành bang Hi Lạp ở Tiểu Á và trên biển Êgiê. Ba Tư có một lực lượng quân sự hùng hậu (cả bộ binh, kị binh và hải quân), với một tham vọng cũng hết sức lớn : khống chế biển Caxpiên, Hắc Hải, Địa Trung Hải, xâm nhập các thành bang Hi Lạp (kể cả miền lục địa). Nền độc lập của Hi Lạp bị đe dọa trong khi đó Hi Lạp nhất là Aten sau cải cách của Clixten cũng đang thèm khát vươn ra các khu vực xung quanh. Cuộc đụng độ giữa Hi Lạp – Ba Tư xảy ra chính là xuất phát từ nguyên nhân sâu xa đó.

Nguyên nhân trực tiếp

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chiến tranh là phong trào đấu tranh và nổi dậy của các thành bang Hi Lạp (ở Tiểu Á) đang nằm trong sự khống chế của Ba Tư, điển hình là cuộc nổi dậy của dân chúng thành Milê. Vào năm 509 TCN, Milê đã kêu gọi Aten và các thành bang Hi Lạp khác giúp sức. Aten đã cử 20 chiến thuyền với quân thiện chiến cùng thành bang Êrêtơri (trên đảo Ơbê) sang giúp. Được tiếp viện, Milê đã vây hãm và hạ được thành Xácđơ – thủ phủ của tổng đốc Ba Tư ở Tiểu Á. Đariút I đã điều quan tới trấn áp và mãi tới năm 494 TCN mới đàn áp được Milê (Thành Milê bị phá huỷ, thanh niên trai tráng hoặc bị giết hoặc bị biến thành tù binh nô lệ. Phụ nữ, trẻ em bị bắt đưa về Ba Tư bán làm nô lệ. Vốn sẵn có ý đồ xâm lược, viện cớ Aten và Êrêtơri đã giúp Milê làm phản, Đariút I quyết định dùng vũ lực tuyên chiến với các thành bang Hi Lạp và chủ động tấn công Aten. Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư bùng nổ và diễn ra ngay trên phần đất Hi Lạp.

Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư

Về phía Ba Tư, hai lần tiến quân sang Hi Lạp không thành, vẫn không làm cho các vua chúa Ba Tư từ bỏ tham vọng xâm lược của mình. Năm 485 TCN, Đariút I chết, con trai là Xécxét lên thay quyết tâm thực hiện mơ ước của cha mình. Y tăng cường chuẩn bị những đợt tiến quân mới. Xécxét cho đào một kênh đào rộng qua eo đất Ácxe (để chiến thuyền Ba Tư tránh phải vượt qua mũi đất Atốt – nơi thường xảy ra những trận bão biển lớn). Xécxét đã huy động sức lực của Ai Cập, Phenixi để bắc một cầu phao dài vượt qua eo Đacđanen. Đồng thời tăng cường tích trữ lương thảo tại nhiều địa điểm trên đường hành quân, tuyển mộ thêm quân.

Ba Tư vẫn không từ bỏ tham vọng của mình. Năm 479 TCN, Ba Tư lại phát động chiến tranh xâm lược Hi Lạp. Từ Tétxali, Mácđôniút thống lĩnh đạo quân Hi Lạp tràn vào xứ Attích, vây hãm thủ đô Aten. Quân đồng minh Hi Lạp do vua Xpác – Paoxanist – chỉ huy được điều tới giải vây cho Aten, và tấn công quân Ba Tư. Mácđôniút phải rút khỏi Attích. Quân đồng minh truy kích và trận tử chiến đã xảy ra ở Plate. Tuyệt đại bộ phận quân lực Ba Tư bị tiêu diệt, tướng Mácđôniút tử trận. Kế hoạch tấn công Hi Lạp lần thứ ba lại thất bại nặng nề.

Nhân đã thắng thế, hải quân Hi Lạp (do vua Xpác – Lêôtisitát và tướng Aten – Xăngtipốt chỉ huy) đã tấn công quân Ba Tư ở Micalơ, giải phóng được các đảo Lexbốt, Xamốt, Kiốt… Hi Lạp còn tấn công hải quân Ba Tư ở vùng biển Đácđanen, Ba Tư liên tiếp thất bại. Năm 448 TCN, Ba Tư buộc phải kí hòa ước với Hi Lạp – hòa ước Callia – thừa nhận quyền độc lập tự chủ của các thành bang Hi Lạp ở Tiểu Á, từ bỏ quyền bá chủ trên biển Egiê.

Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư kết thúc. Thắng lợi hoàn toàn thuộc về các bang Hi Lạp.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Chiến tranh Hi Lạp – Ba Tư (492 – 448 TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/chien-tranh-hi-lap-ba-tu-492-448-tcn/feed/ 0
Nền kinh tế của Aten trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ https://ngaydacbiet.com/nen-kinh-te-cua-aten-trong-thoi-ky-toan-thinh-cua-che-do-chiem-huu-no-le/ https://ngaydacbiet.com/nen-kinh-te-cua-aten-trong-thoi-ky-toan-thinh-cua-che-do-chiem-huu-no-le/#respond Fri, 16 Jul 2021 15:21:49 +0000 https://ngaydacbiet.com/nen-kinh-te-cua-aten-trong-thoi-ky-toan-thinh-cua-che-do-chiem-huu-no-le/ Sau cuộc chiến Hi Lạp – Ba Tư, trong thế kỉ V, IV TCN, nền kinh tế Aten đạt tới điểm cực thịnh. Nông nghiệp Do những tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế nông nghiệp ở Aten phát triển với một sắc thái riêng. Việc trồng cây lương thực ít được phổ […]

Bài viết Nền kinh tế của Aten trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Sau cuộc chiến Hi Lạp – Ba Tư, trong thế kỉ V, IV TCN, nền kinh tế Aten đạt tới điểm cực thịnh.

Nông nghiệp

Do những tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế nông nghiệp ở Aten phát triển với một sắc thái riêng. Việc trồng cây lương thực ít được phổ cập và năng suất cũng không cao, tạo ra giá thành 1 kg thóc cao hơn giá thóc nhập từ nước ngoài vào. Do vậy, Aten vẫn thường xuyên nhập lúa mì của Ai Cập, của các nước ở vùng Hắc Hải. Đất đai và khí hậu Aten rất thích hợp với sự sinh trưởng và phát triển của nho, ôliu, vì vậy sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của Aten vẫn là nho và ôliu – hai loại cây trồng cung cấp nguyên liệu cho những xưởng thủ công chế tạo rượu vang và ép dầu ôliu.

Công thương nghiệp

Hoạt động kinh tế phát đạt nhất của Aten vẫn là hoạt động kinh tế Công thương nghiệp và mậu dịch hàng hải. Sản xuất thủ công phong phú, tinh xảo nổi tiếng ở trong nước cũng như thị trường nước ngoài, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cư dân Aten và hoạt động ngoại thương.

Các ngành nghề thủ công phát triển mạnh và đa dạng: luyện kim, chế tạo vũ khí, đồ trang sức, đồ da, đồ gỗ, đồ gốm, sành sứ, nhạc cụ, may mặc, dệt vải v.v… Quy mô của các xưởng thủ công cũng lớn dần lên. Hiện tượng các xưởng thủ công sử dụng từ 50 đến 100 nô lệ làm việc đã trở nên phổ biến. (Đó là chưa kể tới những công trường khai thác mỏ – như ở mỏ bạc Lôriông – đã sử dụng tới sức lao động của hàng nghìn nô lệ). Sự phân công chuyên môn hóa trong các xưởng đã xuất hiện (vừa tăng năng suất lao động, vừa tạo ra cho Aten một đội ngũ những thợ thủ công lành nghề), ví như trong các xưởng may mặc đã phân công người chuyên đo, cắt, người chuyên may những loại quần áo khác nhau. Ở các xưởng luyện kim cũng tương tự, có người chuyên phụ trách khuôn đúc, lò đúc, thổi bễ… Lực lượng sản xuất chính trong các xưởng thủ công là nô lệ (của nhà nước hay tư nhân). Chỉ có một tỉ lệ không đáng kể dân tự do làm nghề thủ công và họ thường là những thợ giỏi, lành nghề, chuyên sản xuất những hàng thủ công tinh xảo, đòi hỏi trình độ tay nghề cao như làm mắt giả cho tượng, điêu khắc chạm trổ tinh vi, trang trí hoa văn trên các bình gốm, sứ màu quý và đắt tiền.

Thương nghiệp và mậu dịch hàng hải

Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp đã thúc đẩy kinh tế thương nghiệp và mậu dịch hàng hải ở Aten phát triển mạnh mẽ. So với ngoại thương, nội thương của Aten có kém hơn, nhưng khá sầm uất. Các chợ trung tâm mọc lên (nhất là chợ ở thủ đô Aten), bày bán tất cả những mặt hàng thiết yếu thỏa mãn những nhu cầu của người bình dân cho tới những hàng xa xỉ, đắt giá. Nông dân ở các vùng phụ cận cũng mang tới chợ những sản phẩm của họ để bán, mua. Gà, vịt hoa quả, cá, len dạ, quần áo, vũ khí, dầu thắp sáng, rượu, đồ gốm… được bày bán la liệt trong các khu riêng biệt được sắp xếp hợp lí ở các chợ. Dân cư Aten dùng những đồng tiền bằng đồng hoặc thiếc có chạm nổi làm vật trung gian trao đổi ở các chợ.

Hoạt động ngoại thương Aten phát đạt hơn nhất là sau chiến thắng người Ba Tư, Aten đã vươn lên nắm được quyền khống chế Địa Trung Hải. Cảng Pirê một quân cảng và thương cảng, cách thủ đô có 11 km là trung tâm xuất, nhập khẩu quan trọng nhất của Aten đồng thời cũng là trung tâm lớn nhất của thế giới cổ đại. Từ cảng Pirê, Aten xuất sang các nước lân bang những sản phẩm nổi tiếng của họ; dầu ôliu, rượu nho, đồ gốm màu có trang trí hoa văn và hình vẽ đẹp, đá cẩm thạch, thiếc, chì, mật ong, vải (để may mặc và làm buồm).

Cũng tại cảng Pirê, Aten nhập đủ các mặt hàng thiết yếu của hầu hết các nước trong thế giới cổ đại: ngũ cốc từ Hắc Hải, Bắc Phi, đão Xixin, hạt tiêu từ Ấn Độ, chà là và lúa mì của vùng Lưỡng Hà; ngà voi từ châu Phi; gỗ đóng thuyền, nhựa, dầu, gai, đồng từ xứ Macedonia và Toraxơ. Ngoài ra Aten còn nhập cá, da súc vật, giấy, đá quý, đồ thuỷ tinh… Đặc biệt có một loại hàng hóa được người Aten quan tâm – những nô lệ – lực lượng sản xuất cơ bản của chế độ chiếm nô khu vực Địa Trung Hải. Cảng Pire cũng là trung tâm nhập và xuất hàng đoàn nô lệ. Pirê, thủ phủ Aten, Đêlốt… là những chợ buôn bán nô lệ vào bậc nhất của thế giới cổ đại.

Một nét đặc biệt trong ngoại thương của Aten, là Aten không chỉ nhập hàng hóa của các nước với số lượng lớn để cung cấp cho thị trường trong nước, mà Aten còn nhập (kể cả nô lệ), sau đó lại xuất sang bán cho các nước khác (nhất là các nước ở khu vực phía tây). Aten thực sự trở thành trung tâm mậu dịch, đầu mối buôn bán của thế giới cổ đại, tạo cho Aten những khoản thu nhập lớn tăng thêm vai trò và uy tín của Aten trong thế giới Hi Lạp.

Ngân hàng

Hoạt động tín dụng ngân hàng và cho vay lãi cũng phát đạt. Hệ thống tiền tệ Ateno có giá trị sử dụng không những ở trong nước mà còn ở các thị trường khác, thậm chí có giá trị đến nối các lái buôn người nước ngoài sau khi bán hết hàng, nếu không chở hàng khác từ Aten về thì họ chỉ mang tiền Aten về. Ở cảng Pire cũng như những trung tâm thương mại Aten đã xuất hiện tầng lớp người giàu có với những cửa hiệu chuyên đổi tiền, cho vay lãi và thiết lập nên những ngân hàng tư nhân với số vốn tài sản khổng lồ (ví như ngân hàng Padiông luôn có 50 talăng vàng). Bản thân nhà nước Aten, trong nhiều trường hợp, đã vay tiền của những ngân hàng tư gia này. Lãi suất cho vay thường từ 12 đến 18%.

Trong các thế kỉ V, IV TCN hoạt động kinh tế Aten phồn vinh, thành đạt. Tuy nhiên, về cơ bản, nền kinh tế Hi Lạp vẫn thuộc phạm trù kinh tế tự nhiên – nền kinh tế tồn tại và phát triển dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ theo hình thức cưỡng bức siêu kinh tế.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Nền kinh tế của Aten trong thời kỳ toàn thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/nen-kinh-te-cua-aten-trong-thoi-ky-toan-thinh-cua-che-do-chiem-huu-no-le/feed/ 0
Sự phát triển của chế độ nô lệ ở Aten (từ thế kỉ V đến thế kỉ IV TCN) https://ngaydacbiet.com/su-phat-trien-cua-che-do-no-le-o-aten-tu-the-ki-v-den-the-ki-iv-tcn/ https://ngaydacbiet.com/su-phat-trien-cua-che-do-no-le-o-aten-tu-the-ki-v-den-the-ki-iv-tcn/#respond Fri, 16 Jul 2021 13:31:05 +0000 https://ngaydacbiet.com/su-phat-trien-cua-che-do-no-le-o-aten-tu-the-ki-v-den-the-ki-iv-tcn/ Sau cải cách Xôlông, chế độ nô lệ vì nợ ở Aten chấm dứt. Nguồn nô lệ chủ yếu cung cấp cho xã hội Aten là những tù binh trong các cuộc chiến, những nạn nhân của những vụ cướp biển và những nô lệ được mua và bán từ nước ngoài về. Tuyệt đại […]

Bài viết Sự phát triển của chế độ nô lệ ở Aten (từ thế kỉ V đến thế kỉ IV TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Sau cải cách Xôlông, chế độ nô lệ vì nợ ở Aten chấm dứt. Nguồn nô lệ chủ yếu cung cấp cho xã hội Aten là những tù binh trong các cuộc chiến, những nạn nhân của những vụ cướp biển và những nô lệ được mua và bán từ nước ngoài về. Tuyệt đại bộ phận nô lệ ở Aten là gốc người châu Phi, Tiểu Á, vùng Hắc Hải.

Có bao nhiêu nô lệ ở Aten vào thời kỳ này?

Cho tới nay vẫn chưa có con số thống kê chính xác số lượng nô lệ ở Aten. Atênê – nhà văn Hi Lạp thế kỉ III – cho rằng ở Aten có khoảng 40 vạn nô lệ, 2 vạn dân tự do, 1 vạn kiều dân Mêtéc. Trong tác phẩm “Nhân khẩu của thế giới Hi Lạp – Rôma” (xuất bản năm 1886), nhà sử học Đức – Bêlốc – lại cho rằng Aten (ở thời điểm cao nhất) số lượng nô lệ cũng chỉ đạt tới 10 vạn (cùng 10 vạn dân tự do và 30 vạn kiều dân Mêtéc). Còn F.Enghen trong “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” lại đưa ra một số liệu khác: 365.000 nô lệ, (90.000 dân tự do và 45.000 kiều dân Mêtéc). Nhà sử học Nga – Nikiphơrốp – dù không nêu ra một con số cụ thể nhưng ông đã dự đoán tỉ lệ nô lệ so với dân tự do: “Ngay ở những thành bang Hi Lạp phát đạt nhất, số nô lệ không vượt quá 90% và cũng không ở dưới mức 15% cư dân thành thị”.

Nô lệ được sử dụng trong các hoạt động kinh tế và xã hội

Sức lao động của nô lệ được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống kinh tế, xã hội của người Aten. Trong nông nghiệp, lao động của nô lệ ít được sử dụng, số lượng nô lệ nông nghiệp không nhiều, vì nông nghiệp Aten chủ yếu trồng nho, ôliu – một loại cây trồng đòi hỏi sự chăm sóc công phu, cẩn thận, khi thu hoạch cũng phải hết sức nhẹ nhàng, thận trọng (để khỏi dập, vỡ ảnh hưởng đến chất lượng rượu, dầu ôliu). Lao động nô lệ được sử dụng phổ biến và với quy mô lớn chủ yếu trong hoạt động kinh tế công, thương nghiệp. Có xưởng sử dụng 20, 30 nô lệ, nhưng cũng có đa số xưởng đã sử dụng tới hàng trăm nô lệ. Tại các xưởng khai thác mỏ, sức lao động của nô lệ được sử dụng nhiều nhất, số lượng đông nhất. Mỏ bạc ở Lôriông – do nhà nước quản lí – đã sử dụng tới hàng nghìn nô lệ”.

Sức lao động của nô lệ còn được sử dụng triệt để trong việc xây dựng các công trình công cộng, khai thác đá, những công việc tạp địch trong các gia đình chủ nô (chăm sóc vườn gia súc, giữ ngựa, nấu bếp, hầu hạ…). Trong thương mại, nô lệ được sử dụng chủ yếu để chèo thuyền, khuân, bốc dỡ hàng hóa, phục dịch ở các hiệu buôn. Khi có chiến tranh, nô lệ được huy động để chèo thuyền chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí. Ở thủ đô Aten, nhà nước đã sử dụng 300 nô lệ người xứ Xíttơ (vùng Đanuýp) làm cảnh sát.

Những nô lệ cảnh sát này thực hiện nhiệm vụ của họ một cách mẫn cán, trung thành và cứng rắn.

Sở hữu, mua bán nô lệ,… được pháp luật công nhận và bảo hộ

Dù là nô lệ của tư nhân hay của nhà nước, luật pháp Aten quy định nô lệ là sở hữu riêng, tài sản riêng của chủ nô. Nô lệ là “công cụ biết nói” – không có tài sản, không có gia đình không có tên gọi (thường được gọi theo quê quán). Để phân biệt và để nhận biết nô lệ của mình, chủ nô thường khắc dấu trên trán mỗi nô lệ. Chủ nô bỏ tiền ra mua nô lệ, nô lệ hoàn toàn thuộc về sở hữu của họ, có nghĩa vụ lao động sản xuất và phục dịch. Luật pháp thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu này. Chủ nô có quyền bán, mua, nhượng đổi, thừa kế cho người khác nô lệ của họ, hành hạ đánh đập, thậm chí có thể giết chết nô lệ của mình.

Việc bán, mua, đổi chác nô lệ là việc thường ngày, công khai và đậm tính thương mại. Nô lệ ở Aten đã thành một món hàng hóa. Aten có những chợ chuyên bán nô lệ. Nô lệ được đem bán như người ta bán gia súc. Người mua xem xét, xoi mói từ dáng dấp, cái răng, cái tóc đến những khả năng có thể có được của nô lệ. Giá cả không ổn định, phụ thuộc vào số tù binh có được sau mỗi cuộc chiến, số lượng người bị bắt trong các vụ cướp biển và vào khả năng, nghề nghiệp của nô lệ. Những nô lệ vốn là thợ thủ công giỏi, vũ nữ, nhạc công… bao giờ cũng cao giá hơn.

Các phương thức bóc lột nô lệ ở Aten

Ở Aten, phương thức bóc lột và cách sử dụng nô lệ cũng đa dạng, phong phú. Đa số chủ nô đã sử dụng nô lệ để trực tiếp sản xuất hoặc phục dịch gia đình. Một số người giàu có, mua nô lệ về nhưng không phải để trực tiếp sản xuất, mà đem nô lệ cho tư nhân hoặc nhà nước thuê theo những hợp đồng thoả thuận. (Phần lớn nô lệ của nhà nước ở mỏ bạc Lôriông là do thuê lại của những chủ kinh doanh kiểu này). Một số chủ nô khác lại sử dụng nô lệ theo kiểu cho phép nô lệ của mình tự kinh doanh sản xuất, tự tìm kiếm việc làm ở các xưởng thủ công, hầm mỏ, bến tàu, trang trại… theo những kì hạn quy định, đem nộp cho chủ những khoản tiền nhất định.

Nhà nước Aten cũng có nô lệ, nhưng số lượng không nhiều và chủ yếu được sử dụng trong các công việc hành chính, quét đường, sửa chữa đường sá, cầu cống, xây dựng công trình công cộng, cảnh sát, chèo thuyền… Những nô lệ nhà nước có thân phận và đời sống khá hơn những nô lệ tư gia, thậm chí một số nô lệ có công trạng được giải phóng thành kiều dân Metéc (như Clixten đã thực hiện).

Nô lệ chiếm tỉ lệ đông đảo trong đám cư dân Aten và có mặt ở hầu hết trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Nhưng thân phận, địa vị của họ lại quá thấp hèn, hoàn toàn là vật sở hữu của chủ nô, bị chủ nô bóc lột tàn bạo theo phương châm: chi phí ít nhất để thu lợi nhuận cao nhất. Đó là đặc trưng cơ bản của chế độ nô lệ Hi Lạp và đó cũng là lí do cơ bản để giải thích mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô là mâu thuẫn đối kháng cơ bản, không thể điều hòa được trong xã hội Aten.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Sự phát triển của chế độ nô lệ ở Aten (từ thế kỉ V đến thế kỉ IV TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/su-phat-trien-cua-che-do-no-le-o-aten-tu-the-ki-v-den-the-ki-iv-tcn/feed/ 0
Sự hoàn thiện của hình thái nhà nước dân chủ chủ nô Aten (từ thế kỉ V – IV TCN) https://ngaydacbiet.com/su-hoan-thien-cua-hinh-thai-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-tu-the-ki-v-iv-tcn/ https://ngaydacbiet.com/su-hoan-thien-cua-hinh-thai-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-tu-the-ki-v-iv-tcn/#respond Fri, 16 Jul 2021 12:11:43 +0000 https://ngaydacbiet.com/su-hoan-thien-cua-hinh-thai-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-tu-the-ki-v-iv-tcn/ Nội dung và bản chất nhà nước Aten Giai cấp thống trị ở Aten có 2 bộ phận: quý tộc chủ nô ruộng đất và quý tộc chủ nô công thương. Quý tộc chủ nô ruộng đất chủ trương thiết lập nền chuyên chính theo thể chế cộng hòa quý tộc, ngược lại, quý tộc […]

Bài viết Sự hoàn thiện của hình thái nhà nước dân chủ chủ nô Aten (từ thế kỉ V – IV TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Nội dung và bản chất nhà nước Aten

Giai cấp thống trị ở Aten có 2 bộ phận: quý tộc chủ nô ruộng đất và quý tộc chủ nô công thương. Quý tộc chủ nô ruộng đất chủ trương thiết lập nền chuyên chính theo thể chế cộng hòa quý tộc, ngược lại, quý tộc chủ nô công thương lại chủ trương xây dựng bộ máy nhà nước theo thiết chế dân chủ, chủ nô.

Sự đối lập và xung đột giữa hai chủ trương của hai bộ phận thuộc giai cấp thống trị đã diễn ra ngày càng quyết liệt ngay từ những thập kỉ 80 của thế kỉ V TCN. Xu hướng dân chủ ngày càng lấn át và thắng thế trước xu hướng bảo thủ của quý tộc chủ nô ruộng đất, nhờ vậy nền dân chủ chủ nô Aten được củng cố, hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao nhất của nó, thành niềm tự hào vĩnh cửu của lịch sử nhân loại.

Những cải cách dân chủ của Ephiantét

Năm 462 TCN, sau khi nắm quyền, Ephiantét (Ephialtes) bắt đầu thực hiện một số cải cách dân chủ. Trước hết ông đã tước bỏ quyền lực của hội đồng trưởng lão – một tổ chức, mà theo Ephiantét, là cơ quan phản dân chủ về thành phần cũng như các chức năng, quyền hạn. Quyền lập pháp (trước đây do Hội đồng trưởng lão nắm giữ) được trao cho đại hội nhân dân (Ecclesia). Quyền hành pháp trao cho hội đồng 500 người (Bule) và quyền tư pháp trả về cho cơ quan chức năng của nó – toà án nhân dân (Hélie) – Hội đồng trưởng lão (Arêôpagiơ) vẫn tồn tại nhưng chỉ có chức năng điều hành các nghi lễ, tế tự và xét xử các vụ án tôn giáo.

Tiếp đó, Ephiantét đa đưa ra chế độ Gơraphêparanômôn, quy định các nhà soạn luật phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về nội dung và hậu quả của những dự luật mà họ soạn thảo. Chế độ này vừa ngăn chặn được những mưu đồ phá hoại nền dân chủ, vừa đề phòng được những chủ trương phiêu lưu, quá khích không có lợi cho nền dân chủ. Phái bảo thủ không chịu khoanh tay, hò hét và kích động dân chúng rằng Ephiantét “đã mê hoặc quần chúng bằng những quyền tự do dân chủ quá trớn” và tổ chức ám hại ông (vào năm 461 TCN).

Thời kỳ Pêricơlét cầm quyền Aten

Pêricơlét (Péricles) (499 – 429 TCN) trở thành lãnh tụ của phái dân chủ đồng thời cũng là người lãnh đạo cao nhất của nhà nước Aten. Pêricơlét xuất thân từ gia đình quý tộc chủ nô giàu có, cháu ngoại của Clixten, con trai của danh tướng Aten Xăngtipốt. Nhờ gia thế và được giáo dục toàn diện, chu đáo ngay từ nhỏ nên Pêricơlét sớm nổi tiếng là một người học rộng, tài cao, nhà hùng biện và quân sự lỗi lạc, có quan hệ mật thiết và rộng rãi với nhiều nhà triết học, văn học nổi tiếng ở Aten. Sử gia Tuyxiđít – người theo phái bảo thủ đối lập, cũng phải thừa nhận Pêricolét “… có tài năng, uy tín, thông minh, có tư cách đạo đức, không để cho ai mua chuộc”. Vì thế, trong suốt 15 năm liên tục (từ năm 444 đến 429 TCN), Pêricơlét được bầu làm tướng quân thứ nhất. Pêricolét đã tích cực vận động và thực hành nhiều chính sách dân chủ, tiến bộ nhằm hoàn thiện nền dân chủ Aten.

Thời kì Pêricơlét cầm quyền, nền dân chủ chủ nô Aten đạt đến mức hoàn hảo nhất, trở thành mẫu mực của chế độ dân chủ trong thế giới cổ đại. Thời kì Pêricơlét cầm quyền cũng là “thời kì hoàng kim” của Aten và thế giới Hi Lạp. “Thế kỉ vĩ đại” hay “thế kỉ Pêricơlét”.

Pêricolét chủ trương tiếp tục duy trì và phát triển các tổ chức và các sinh hoạt dân chủ vốn đã có từ trước. Duy trì quyền hạn và chức năng của Đại hội nhân dân hội đồng 500 người, toà án nhân dân (có 6000 thẩm phán), hội đồng tư lệnh (gồm 10 tướng lĩnh)… Pêricơlét còn tăng cường các hoạt động dân chủ, quy định 10 ngày đại hội nhân dân sẽ nhóm họp một lần. Toà án nhân dân với 6000 thẩm phán sẽ không có công tố viên chuyên nghiệp để toàn thể những ai tham dự phiên toà đều có quyền công khai hết tội hoặc bào chữa cho bị can. Pêricơlét cũng tăng cường những hoạt động văn hóa tinh thần phục vụ các công dân tự do (tổ chức lễ hội, thi đấu thể thao, biểu diễn ca kịch…).

Để thực sự mở rộng quyền dân chủ cho các công dân Aten, Pêricơlét đã thực hành chế độ bầu cử các quan chức nhà nước bằng phương pháp bốc thăm“. Nhờ vậy, các công dân Aten đều có cơ hội nắm giữ các chức vụ của bộ máy nhà nước, kể cả những chức vụ cao nhất: quan chấp chính.

Để tạo cơ sở vững chắc cho nền dân chủ và tạo điều kiện cho công dân Aten thực hiện quyền dân chủ của họ, Pêricơlét đã cho thực hiện một loạt những chính sách tiến bộ khác: Trả lương cho các viên chức, nhà nước thực hành rộng rãi và thường xuyên chế độ phúc lợi trợ cấp đối với những công dân gặp khó khăn (cấp phát thóc, lúa, cấp tiền để mua vé xem ca kịch, thể thao…), tiến hành xây dựng củng cố các công trình quốc phòng kiến thiết xây dựng thủ đô Aten, đồng thời Pêricolét cũng triệt để thực hành chính sách di dân Aten tới các vùng nhượng địa tại các thành bang của đồng minh Đêlốt vừa kiểm soát được các thành bang đồng minh vừa thỏa mãn yêu cầu ruộng đất của công dân Aten. (Theo thống kê, Pêricơlét đã đưa hơn 10.000 công dân Aten tới các vùng nhượng địa).

Tóm lại, với “Thế kỉ Pêricơlét”, Aten trở thành một thành bang phát triển nhất về kinh tế, có một thiết chế nhà nước tiến bộ nhất. Nền dân chủ chủ nô đạt tới mức hoàn hảo nhất, đỉnh cao của văn minh cổ đại, cội nguồn của văn minh châu Âu, niềm tự hào và kinh nghiệm của nhân loại.

Những hạn chế của Nhà nước Aten

Nhà nước Aten là đỉnh cao của nền dân chủ cổ đại, nhưng đó chỉ là nền dân chủ của giai cấp chủ nô, nền chuyên chính của giai cấp thống trị; do vậy nhà nước Aten vẫn còn nhiều hạn chế.

Trước hết, nhà nước dân chủ chủ nô Aten được thiết lập, tồn tại và phát triển trên nền sức lao động của đông đảo nô lệ và kiều dân Mêtéc. Nếu con số của Enghen là chính xác, thì số lượng nô lệ, kiều dân Mêtéc ở Aten hoàn toàn áp đảo số lượng của những công dân tự do (365.000 nô lệ và 45.000 kiều dân trên 90.000 dân tự do). Nô lệ, kiều dân chiếm tỉ lệ tuyệt đối, họ là lực lượng sản xuất cơ bản nuôi sống toàn bộ xã hội Aten, nhưng lại không có quyền công dân, không có quyền định đoạt vận mệnh của họ. Vì vậy, nhà nước Aten trước hết là nhà nước của một thiểu số người thống trị đại đa số cư dân đang sinh sống ở Aten.

Thứ hai, nền dân chủ Aten cũng không được thực hiện phổ cập ngay trong nội bộ những người được hiến pháp thừa nhận là công dân tự do. Đạo luật năm 451 TCN quy định chỉ có những người tự do có đủ 3 tiêu chuẩn (nam giới, 18 tuổi trở lên và cha mẹ đều là người Aten) mới được tham dự đại hội nhân dân (Ecclesia) để thực hiện quyền dân chủ của mình. Trên thực tế, số công dân tự do Aten có đủ 3 tiêu chuẩn kể trên không chiếm quá 30% tổng số công dân tự do Aten. Phụ nữ, trẻ nhỏ dưới 18 tuổi, những người già yếu, ốm đau, những thanh niên 18 tuổi nhưng cha hoặc mẹ không phải là người Aten chiếm một tỉ lệ cao, nhưng theo luật pháp, họ không được hưởng quyền công dân.

Thứ ba, các hoạt động chính trị, bầu cử đều chỉ diễn ra ở thủ đô Aten, do vậy, trên thực tế chỉ có những công dân tự do (đủ tiêu chuẩn) ở ngay Aten và một số vùng phụ cận mới có điều kiện trực tiếp tham gia các hoạt động dân chủ một cách thường xuyên. Nhiều người cho rằng: số công dân Aten thường có mặt tại các đại hội nhân dân (Ecclesia) chỉ đạt tới con số 6000 người. Như vậy, nền dân chủ Aten Vốn dĩ đã là nền dân chủ của một thiểu số trong đám cư dân Aten, lại càng trở nên thiểu số hơn nữa.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Sự hoàn thiện của hình thái nhà nước dân chủ chủ nô Aten (từ thế kỉ V – IV TCN) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/su-hoan-thien-cua-hinh-thai-nha-nuoc-dan-chu-chu-no-aten-tu-the-ki-v-iv-tcn/feed/ 0
Macedonia và sự thống trị các thành bang Hi Lạp https://ngaydacbiet.com/macedonia-va-su-thong-tri-cac-thanh-bang-hi-lap/ https://ngaydacbiet.com/macedonia-va-su-thong-tri-cac-thanh-bang-hi-lap/#respond Fri, 16 Jul 2021 10:45:42 +0000 https://ngaydacbiet.com/macedonia-va-su-thong-tri-cac-thanh-bang-hi-lap/ Macedonia là một vùng thuộc Nam Âu, tiếp giáp với biên giới phía bắc Hi Lạp. Macedonia có 2 khu vực địa lí: miền thượng là vùng đồi núi, cao nguyên thích hợp với việc chăn nuôi; miền hạ là vùng đồng bằng thuận tiện cho trồng trọt. Macedonia có nhiều gỗ quý, kim loại […]

Bài viết Macedonia và sự thống trị các thành bang Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Macedonia là một vùng thuộc Nam Âu, tiếp giáp với biên giới phía bắc Hi Lạp. Macedonia có 2 khu vực địa lí: miền thượng là vùng đồi núi, cao nguyên thích hợp với việc chăn nuôi; miền hạ là vùng đồng bằng thuận tiện cho trồng trọt. Macedonia có nhiều gỗ quý, kim loại màu. Cư dân sống chủ yếu về chăn nuôi và trồng trọt và sử dụng ngôn ngữ như ngôn ngữ của cư dân vùng Tétxali (Bắc Hi Lạp).

Khi các thành bang Hi Lạp đã đạt tới thời kì phát triển huy hoàng của chế độ chiếm nô thì người Macedonia vẫn còn sống ở giai đoạn mạt kì của xã hội thị tộc (tương đương như thời đại Hôme của Hi Lạp. Alếchxan I (495 – 450 TCN) được coi là người đã thiết lập nên nhà nước của người Macedonia. Áckelaút (419 – 399 TCN) là người kế tục hoàn thiện và củng cố nhà nước Macedonia. Áckelaút đã xây dựng Penla thành thủ đô tráng lệ của xứ Macedonia; thiết lập hệ thống tiền tệ, xây dựng nhiều đường giao thông, khuyến khích sự phát triển của kinh tế Công thương nghiệp, xây dựng lực lượng quân sự…

Đến thế kỉ IV TCN, nhờ tiếp thu và học hỏi những thành tựu văn hóa, khoa học kĩ thuật của các quốc gia lân bang (nhất là Hi Lạp), Macedonia đã nhanh chóng phát triển thể lực và trở thành một quốc gia hùng cường ở khu vực Bancăng (khi các quốc gia của người Hi Lạp đã suy yếu). Philíp II (359 – 336 TCN) – người đặt nền móng cho sự cường thịnh của Macedonia – đã thực hành một loạt cải cách kinh tế, xã hội và quân sự, tạo nên một quốc gia Macedonia thống nhất, giàu mạnh về kinh tế, hùng cường về quân sự, và có những chính sách đối ngoại khôn khéo. Philíp II đã tăng cường và tích cực xây dựng lực lượng, dự trữ lương thảo để thực hành chính sách xâm lược, bành trướng. Đánh chiếm Canxiđíc và Taraxơ, Philíp II đã mở đầu công cuộc chinh phục và thống trị các quốc gia Hi Lạp của người Macedonia.

Năm 338 TCN thống lĩnh một đạo quân lớn, Philíp II đánh thắng xuống miền lục địa Hi Lạp. Một lần nữa, các thành bang Hi Lạp lại liên kết với nhau để chống trả (do Aten và Tebơ cầm đầu). Nhưng khác hẳn với thời gian chống Ba Tư, các thành bang Hi Lạp, do nhiều lí do khác nhau, đã không liên kết và chống trả thành công. Trận kịch chiến giữa Philíp II và Liên minh Hi Lạp đã xảy ra ở Kôrênê (thuộc Bêôxi). Liên quân Hi Lạp đại bại: Toàn bộ chiến binh Tebơ tử trận, 1.000 binh sĩ Aten bị giết, 2000 binh sĩ khác bị bắt làm tù binh.

Năm 337 TCN tại Corinh, Philíp II đã triệu tập hội nghị toàn thể các thành bang Hi Lạp (Xpác không tham dự) thiết lập Đồng minh Corinh (còn gọi là Đồng minh Hi Lạp) do Macedonia chỉ huy. Về hình thức, các thành bang Hi Lạp vẫn giữ được quyền độc lập, nhưng thực ra đã bị lệ thuộc vào Macedonia (nhất là về quân sự, ngoại giao).

Nhiều nhà sử học cho rằng, người Macedonia cũng là một nhánh của tộc người Hi Lạp.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Macedonia và sự thống trị các thành bang Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/macedonia-va-su-thong-tri-cac-thanh-bang-hi-lap/feed/ 0
Cuộc đông chinh của Alexander Macedonia và thời kỳ Hy Lạp hóa https://ngaydacbiet.com/cuoc-dong-chinh-cua-alexander-macedonia-va-thoi-ky-hy-lap-hoa/ https://ngaydacbiet.com/cuoc-dong-chinh-cua-alexander-macedonia-va-thoi-ky-hy-lap-hoa/#respond Fri, 16 Jul 2021 09:37:50 +0000 https://ngaydacbiet.com/cuoc-dong-chinh-cua-alexander-macedonia-va-thoi-ky-hy-lap-hoa/ Như vũ bão, quân Alexander tràn vào chiếm Babylon, Xudơ, Pécxêpôlít (những thủ phủ quan trọng nhất của Ba Tư). Đế quốc Ba Tư diệt vong sau 200 năm tồn tại. Không dừng lại, Alexander tiếp tục cho quân tràn vào chiếm Ecbatan (kinh độ của vương quốc Medi), Pacti, Báctơria và tiến sâu vào […]

Bài viết Cuộc đông chinh của Alexander Macedonia và thời kỳ Hy Lạp hóa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Như vũ bão, quân Alexander tràn vào chiếm Babylon, Xudơ, Pécxêpôlít (những thủ phủ quan trọng nhất của Ba Tư). Đế quốc Ba Tư diệt vong sau 200 năm tồn tại. Không dừng lại, Alexander tiếp tục cho quân tràn vào chiếm Ecbatan (kinh độ của vương quốc Medi), Pacti, Báctơria và tiến sâu vào vùng Trung Á. Tại Trung Á, quân Alexander gặp phải sự chống đối quyết liệt của cư dân địa phương, 2.000 chiến binh Macedonia bỏ mạng. (Vì vậy sau khi đã đè bẹp sự phản kháng ở vùng này, Alexander đã thẳng tay tàn sát cư dân, 120.000 người đã bị giết hại).

Từ Afganishtan, Alexander Macedonia thân chinh chỉ huy quân Macedonia tràn vào Tây Bắc Ấn Độ (vùng Pengiáp) và làm chủ vùng này. Alexander còn định tiếp tục vượt sông Indus (Sông Ấn) vào sâu trong nội địa, nhưng vì quá mệt mỏi trên các nẻo đường chinh chiến, lại bị người Ấn thường xuyên đột kích, quấy phá. Alexander buộc lòng phải cho quân Macedonia rút về nước (năm 325 TCN) sau khi đã để lại một lực lượng đồn trú tại Pengiáp.

10 năm chinh chiến đầy chiến tích, bằng vũ lực Alexander đã thiết lập nên một đế quốc rộng lớn, bao gồm lãnh thổ của nhiều vùng, nhiều quốc gia có trình độ kinh tế, tổ chức chính trị khác nhau, nhiều trung tâm của thế giới cổ đại. Biên giới phía bắc tới tận vùng Iran, Trung Á phía nam xuống vùng Bắc châu Phi, phía tây tới bán đảo Bancăng và phía đông tiếp giáp với miền Tây Bắc Ấn Độ. Alexander đã chọn Babylon làm kinh đô của đế quốc. Để thống trị, cai quản đế quốc rộng lớn này, Alexander đã chia đế quốc thành những trấn (satrapes), sử dụng quan lại địa phương bên cạnh các tổng trấn người Macedonia, duy trì trật tự xã hội bằng bạo lực, quân đội.

Alexander nuôi tham vọng xâm chiếm vùng Ả Rập và đã tích cực chuẩn bị, thăm dò đường thuỷ dọc sông Ơphơrát và những điểm có thể đổ bộ lên bán đảo này, nhưng giữa lúc đó – ngày 13 tháng 6 năm 323 TCN – Alexander chết đột ngột vì bệnh sốt rét ác tính, lúc đó mới 33 tuổi. Cái chết đột ngột của Alexander đã làm cho tình hình đế quốc Macedonia khủng hoảng, đúng như dự đoán của chính Alexander khi đang còn nằm trên giường bệnh “Các tướng quân của ta sẽ làm cho đám tang của ta đẫm máu”. Cuộc xung đột giữa các tướng lĩnh Macedonia đã diễn ra, các nhà sử học Hi Lạp gọi cuộc xung đột này là “Xung đột của các Điađêkhốt”. Những người kế tục các tướng quân đã tôn Ariđê – em trai Alexander – và con nhỏ của Alexander làm Hoàng đế, Pécđicát là tể tướng nắm quyền nhiếp chính, nhưng thực tế chia nhau hùng cứ các vùng: Ptôlômê ở Ai Cập, Lêônít ở Syria, Philốt ở Xixin, Antigôn ở Phơrigi, Nêáckhốt ở Lixia… Cuối cùng đến thế kỉ III TCN, đế quốc Macedonia bị phân liệt thành nhiều quốc gia nhỏ, trong đó có 3 quốc gia lớn nhất (với những vận mệnh lịch sử khác nhau):

  1. Quốc gia Ptôlêmê, bao gồm Ai Cập, một phần Libi, thủ phủ là thành phố Alexandria. 
  2. Quốc gia Xêlêcút gồm những vùng đất của đế quốc Ba Tư cũ ở châu Á, trung tâm là Syria. 
  3. Quốc gia Antigôn gồm đất đai của Macedonia cũ và phần lục địa Hi Lạp. 

Thời kì lịch sử từ khi Alexander Macedonia Đông chinh (năm 334 TCN) cho tới khi quốc gia Ptôlômê (ở Ai Cập) bị Rôma xâm chiếm và biến thành một tỉnh của đế quốc Rôma (năm 30 TCN) được gọi là thời kì Hi Lạp hoá (Hellénisme).

Trong thời kì Hi Lạp hóa, nền văn minh Hi Lạp được phổ biến và truyền bá mạnh mẽ sang các nước xung quanh (kể cả những vùng đất thuộc châu Âu), tạo nên bộ mặt phồn vinh của Phương Đông, tạo nên những thành thị lớn với tư cách là những trung tâm thương mại lớn như Antiốt (Syria), Pécgam (Tiểu Á), Alexandria (Ai Cập),…

Thời kì Hi Lạp hóa, những điều kiện khách quan đã tăng thêm sức sống cho các thành bang Hi Lạp, tạo điều kiện cho Hi Lạp phục hưng lại nền kinh tế trong thời kì khủng hoảng, suy thoái.

Thời kì Hi Lạp hóa là thời kì có sự giao lưu của nền văn hóa Đông – Tây (mạnh mẽ hơn và có hiệu quả hơn). Văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật…

Hi Lạp đã được truyền bá và ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa, lối sinh hoạt của các quốc gia phương Đông. Ngược lại, người Hi Lạp cũng tiếp thu được nhiều thành tựu văn hóa, khoa học kĩ thuật của phương Đông (kể cả lối sống, cách trang phục theo kiểu Ba Tư, Ấn Độ). Thời kì Hi Lạp hóa cũng là thời kì có sự pha trộn chủng tộc lớn trong lịch sử nhân loại.

Hiện nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất về thời gian bắt đầu của thời kì Hi Lạp hóa. Có người cho rằng nên lấy mốc năm 323 TCN (khi Alexander chết). Có người cho rằng nên lấy mốc bằng sự kiện đế quốc Alexander Macedonia phân liệt thành 3 quốc gia (đầu thế kỉ III TCN)…

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Cuộc đông chinh của Alexander Macedonia và thời kỳ Hy Lạp hóa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/cuoc-dong-chinh-cua-alexander-macedonia-va-thoi-ky-hy-lap-hoa/feed/ 0
Văn học Hi Lạp cổ đại https://ngaydacbiet.com/van-hoc-hi-lap-co-dai/ https://ngaydacbiet.com/van-hoc-hi-lap-co-dai/#respond Fri, 16 Jul 2021 08:27:33 +0000 https://ngaydacbiet.com/van-hoc-hi-lap-co-dai/ Trên cơ sở mẫu tự của người Phenixi, người Hi Lạp đã cải biên và sáng tạo ra hệ thống mẫu tự Hi Lạp. So với hệ thống chữ tượng hình (Ai Cập), hình đinh (Lưỡng Hà), mẫu tự Hi Lạp đạt tới một trình độ cao, có khả năng hoàn thiện, khái quát hệ […]

Bài viết Văn học Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Trên cơ sở mẫu tự của người Phenixi, người Hi Lạp đã cải biên và sáng tạo ra hệ thống mẫu tự Hi Lạp. So với hệ thống chữ tượng hình (Ai Cập), hình đinh (Lưỡng Hà), mẫu tự Hi Lạp đạt tới một trình độ cao, có khả năng hoàn thiện, khái quát hệ thống các kí hiệu biểu đạt tư duy. Hệ thống mẫu tự Hi Lạp chính là nguồn gốc của hệ thống chữ viết Xlavơ hiện nay, là cơ sở để từ đó, người Rôma sáng tạo ra hệ thống mẫu tự Rôma, được truyền bá và sử dụng rộng rãi ở hầu hết các dân tộc trên thế giới. Nhờ hệ thống mẫu tự này, người Hi Lạp đã để lại cho hậu thế một di sản văn học vô cùng phong phú.

Thần thoại

Thần thoại là một trong những hình thái văn học xuất hiện sớm nhất ở Hi Lạp. Mitôlôgia tiếng Hi Lạp là một tập hợp, tổng thể những truyện kể dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, huyền hoặc kì ảo, gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng dũng sĩ Hi Lạp… Thần thoại phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên, phản ánh cuộc sống lao động và những hoạt động đời thường của chính người Hi Lạp. Thần thoại Hi Lạp đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử Hi Lạp (từ thời kì văn minh Crét – Myxen cho tới những năm tháng cuối cùng của sự phồn vinh của các quốc gia thành bang) xuất phát từ thực trạng kinh tế, xã hội, từ những tư tưởng triết học phong phú, đa dạng. Bởi vậy, ở Hi Lạp, ngay từ đầu, thần thoại vừa mang tính lịch sử xác thực, phản ánh thực trạng xã hội vừa đậm đà chất hoang đường, duy lí và triết lí.

Hầu hết các truyện thần thoại còn lại đến nay đều do những nhà thơ, nhà soạn kịch thơ đương thời kể lại. Quá trình kể cũng là quá trình sắp xếp biên soạn, tái tạo lại theo những khuynh hướng nhất định. Nhưng nhìn chung, thần thoại Hi Lạp dù hoang đường, dù có thần, thánh, nhưng ít bị tôn giáo đồng hóa, ít bị hòa vào tôn giáo mà chỉ bị văn học nghệ thuật đồng hóa, hòa vào trong văn học, nghệ thuật, đồng thời chính nó lại cung cấp cho văn học nghệ thuật một nguồn đề tài phong phú. Thần thoại “là miếng đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật Hi Lạp… tiền đề… vật liệu của nghệ thuật Hi Lap”.

Thần thoại Hi Lạp giải thích về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc các thần linh. Thoạt đầu là Khaôx, một vực thẳm vô cùng, vô tận, hung dữ như biển khơi, tối đen, lang thang hoang dã. Khaôx sinh Gaia – tiếng Hi Lạp là Đất mẹ – với bộ ngực nở nang, nền móng vững chắc của muôn loài. Gaia và Khaôx sinh ra Erép (chốn tối tăm vĩnh cửu), Nix (đêm tối), Tartar (địa ngục), Erox (tình yêu), Uranôx (bầu trời sao lấp lánh), Môntanhơ (núi non), Pôntôn (biển cả)…

Dớt – người Hi Lạp coi là thần chủ của họ – là con của thần Uranôx và nữ thần Nêa, đã xếp đặt lại thế giới thần linh và chọn đỉnh Olympus làm nơi trú ngụ của các thần. Con người được các thần sáng tạo ra sau cùng, thần thoại Hi Lạp kể rằng chính thần Prômêtê đã lấy đất sét tạo nên con người, rồi sau đó đã đánh cắp lửa của Dớt cho con người tồn tạ… Cứ như vậy, hệ thống thần thánh của người Hi Lạp, được hình thành, sắp xếp theo một trật tự uy quyền và trở thành các thần gắn bó với đời sống người Hi Lạp, bảo trợ cho các thành bang, cho các ngành nghề… Nữ thần Atêna – thần bảo trợ cho thành bang Aten. Điôniđốt – thần bảo trợ cho nghề trồng nho và sản xuất rượu. Apôlôn – thần ánh sáng và nghệ thuật. Aphrôđít – nữ thần tình yêu và sắc đẹp… Các thần thánh được mô tả trong thần thoại rất gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân Hi Lạp: cũng yêu thương, ghen ghét, cũng giận, buồn, đố kị, đa tình, đa thê, ích kỉ… thậm chí cũng bị chảy máu khi bị trúng thương.

Thơ

Thơ là một thể loại văn học phổ biến và rất thành công của người Hi Lạp. Tập thơ lớn nhất và xuất hiện sớm nhất là hai tập Iliát – Ôđixê”, phản ánh một thời kì lịch sử quan trọng; thời kì Hôme. Đó là hai tập trường ca, hai tập sử thi có giá trị trong văn đàn Hi Lạp.

Iliát gồm 15.783 câu thơ, chia thành 24 khúc ca.

Ôđixê dài 12.110 câu thơ và cũng chia thành 24 khúc ca.

Tác giả của tập thơ “Gia phả các thần”, “Lao động và thời tiết” – Hêđiốt – người xứ Bêôxi (thế kỉ VIII TCN) đã phản ánh thời kì Hi Lạp lúc các thành bang mới ra đời.

Từ thế kỉ VII, VI TCN, thơ trữ tình bắt đầu xuất hiện trên thi đàn Hi Lạp với những nhà thơ tiêu biểu: Parốt, Têônhít, Ackilốc, Panhđa, và nữ sĩ Xaphô, …

Xaphô là nhà thơ, nhà giáo nổi tiếng với những bài thơ trữ tình được người Hi Lạp coi là “nàng thơ thứ 10” (sau 9 nàng thơ trong thần thoại).

Kịch thơ

Kịch thơ là một trong những di sản văn học vô giá của người Hi Lạp đậm đà tính nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn, có ý nghĩa giáo dục và chính trị. Hàng năm, vào mùa xuân, người Hi Lạp thường tổ chức những ngày lễ hội, nhất là tục lệ thần Điôniđốt. Trong các ngày lễ này, cư dân Aten thường khoác áo da cừu, hóa trang đeo mặt nạ, ca hát diễn lại những sự tích thần thoại. Nghệ thuật ca kịch bắt đầu từ đó. Từ thế kỉ V TCN, ở Hy Lạp đã xuất hiện nhiều nhà soạn kịch kiệt xuất với những tác phẩm tuyệt tác gồm 2 thể loại: bi kịch và hài kịch.

Étsin (525 – 426 TCN) xuất thân trong một gia đình quý tộc, đã từng tham gia bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến Hi Lạp – Ba Tư. Étsin sáng tạo ra 90 vở kịch (hiện nay chỉ còn giữ được 7 vở), trong đó giá trị nhất là “Orextơ”, “Prômêtê bị xiềng”.

Xôphốclơ (497 – 406 TCN) là tác giả kịch thơ (cả bi kịch, hài kịch) sống cùng thời và cùng quê với Pêricơlét. Sáng tác của Xôphốclơ đạt tới con số 123 vở bi hài kịch (hiện nay cũng chỉ giữ được 7 vở), nổi tiếng là “Ơđip làm vua”, “Ơđip ở Colon”, “Antigôn”.

Ơripít (480 – 406 TCN), người xứ Xalamin, tác giả của 92 vở bi kịch và 1 vở hài kịch, tiêu biểu là “Mêđê”. Ơripít được coi là người sáng tạo ra thể loại kịch tâm lí xã hội Hi Lạp.

Đại biểu xuất sắc của hài kịch Hi Lạp là Arixtôphan (450 – 388 TCN), tác giả của 44 vở hài kịch (hiện còn 11 tác phẩm) nhất là các vở “Kị sĩ”, “Hòa bình”…

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Văn học Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/van-hoc-hi-lap-co-dai/feed/ 0
Những thành tựu khoa học tự nhiên của Hi Lạp cổ đại https://ngaydacbiet.com/nhung-thanh-tuu-khoa-hoc-tu-nhien-cua-hi-lap-co-dai/ https://ngaydacbiet.com/nhung-thanh-tuu-khoa-hoc-tu-nhien-cua-hi-lap-co-dai/#respond Fri, 16 Jul 2021 06:21:53 +0000 https://ngaydacbiet.com/nhung-thanh-tuu-khoa-hoc-tu-nhien-cua-hi-lap-co-dai/ Hi Lạp được coi là quê hương của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của khoa học tự nhiên (Thiên văn học, địa lí, toán học, vật lí, sinh vật, y dược). Là nơi sản sinh ra những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác, với những thành tựu đáng giá đóng góp […]

Bài viết Những thành tựu khoa học tự nhiên của Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Hi Lạp được coi là quê hương của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của khoa học tự nhiên (Thiên văn học, địa lí, toán học, vật lí, sinh vật, y dược). Là nơi sản sinh ra những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác, với những thành tựu đáng giá đóng góp cho kho tàng khoa học tự nhiên của lịch sử nhân loại.

Toán học

Toán học Hi Lạp với Talét (thế kỉ VI TCN), Pitago (580 – 500 TCN), Ơcơlít, Acsimét (285 – 212 TCN)… đã vượt qua cách tính nhân, chia, cộng, trừ sơ cấp, vươn tới sự khái quát thành những định lí, định đề, nguyên lí vẫn được sử dụng trong toán học hiện đại: Định lí Pitago, định lí Talét, định luật Acsimét, định đề Ơcơlít…

Các nhà toán học Hi Lạp cổ đại đã phát minh và đặt cơ sở cho môn hình học. Họ đã tính được độ dài của chu vi quả đất (39.700 km), đường kính, diện tích và chu vi các hình với việc tìm ra giá trị của số đo pi = 3,1324.

Talét (Thế kỉ VI TCN) nhà toán học, thiên văn học và triết học Hi Lạp, quê ở Milê. Người đầu tiên đo được chiều cao của Kim tự tháp nhờ phương pháp đo và tính bóng của nó trên mặt đất. Talét cũng là nhà thiên văn học đầu tiên tính toán và dự báo chính xác ngày xảy ra nhật thực ở Milê – ngày 28 – 5 – 585 TCN.

Pitago (580 – 500 TCN) nhà số học nổi tiếng, quê ở đảo gamốt (thuộc biển Êgiê) người theo chủ trương xây dựng nền chính trị bảo thủ nên đã bỏ Xamốt sang sống ở Nam Hi Lạp, đã từng mở trường dạy học. Pitago (và những học trò của ông) đã có công tổng kết những tri thức về số học, thiết lập nhiều công thức, định lí toán học trong đó có định lí Pitago “Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền trong một tam giác”. Pitago còn là nhà thiên văn học tiến bộ thừa nhận trái đất hình cầu, chuyển động theo một quỹ đạo nhất định.

Acsimét (285 – 212 TCN) – nhà vật lí có tên tuổi nhất, người chế tạo ra những hệ thống máy móc đầu tiên ở Hi Lạp – quê ở Xixin (thành bang Xiracudơ) tác giả của định luật Acsimét, người phát hiện ra sức đẩy của nước (bằng chính trọng lượng của vật ở trong nước), phát hiện ra nguyên lí của phép đòn bẩy. Khi Rôma tấn công Xiracudơ, Acsimét đã phát minh ra nhiều vũ khí, máy móc bảo vệ thành: kính hội tụ để sử dụng ánh nắng mặt trời đốt cháy thuyền Rôma; máy bơm nước sử dụng tay để hút nước cho các chiến thuyền Hi Lạp. Acsimet cũng là người tìm ra giá trị của số pi = 3,1324. Acsimét bị quân Rôma giết chết ngay trong phòng thí nghiệm của ông ở Xiracudơ.

Ơcơlít (nửa đầu thế kỉ III TCN), nhà toán học quê ở Alexandria (Ai Cập) người có công tập hợp nhiều nhà toán học và nhiều công trình toán học về Alexandria; người đầu tiên biên soạn sách giáo khoa hình học.

Thiên văn học

Về thiên văn học, người Hi Lạp cũng có những thành tựu và đóng góp đáng kể với tên tuổi của các nhà thiên văn sáng giá: Talét (thế kỉ VI TCN), Pitago (580 – 500 TCN), Arixtác (khoảng thế kỉ III TCN), Eraxtôten (281 – 192 TCN), Hecataút.

  • Các nhà thiên văn Hi Lạp đã nghiên cứu và công bố những bản đồ thiên văn Babylon;
  • dự đoán được ngày nguyệt thực, nhật thực (Talét);
  • thừa nhận quả đất hình cầu và chuyển động theo một quỹ đạo nhất định (Pitago);
  • đề ra thuyết về hệ thống mặt trời và thuyết trái đất tự xoay quanh nó và xoay quanh mặt trời (Arixtác, người ở đảo Xamốt);
  • tính được độ dài của chu vi quả đất với con số tương đối chính xác 39.700 km (Eraxtôten, người ở Alexandria);
  • vẽ được bản đồ đầu tiên của thế giới (Hêcataút);
  • tính được một năm có 365 ngày và 5/19 của ngày (Mêtôn, thế kỉ V TCN).

Y học

Về y học, Híppôcơrát (460 – 377 TCN) được coi là “ông tổ của khoa học y dược”, là người đả phá mạnh những tư tưởng mê tín, dị đoan trong chữa bệnh, đề ra việc chữa bệnh bằng phương pháp khoa học và yêu cầu đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp đối với các thầy thuốc.

Hêrôphin (đầu thế kỉ III TCN) là người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động của con người. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp khám bệnh thông qua việc bắt mạch (nhanh, chậm) của bệnh nhân.

Hêracơlít – người xứ Tarentum – nổi tiếng trong giới phẫu thuật Hi Lạp. Tương truyền, khi mổ xẻ, Hêracơlít đã sử dụng thuốc mê để giảm sự đau đớn cho bệnh nhân.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Những thành tựu khoa học tự nhiên của Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/nhung-thanh-tuu-khoa-hoc-tu-nhien-cua-hi-lap-co-dai/feed/ 0
Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa Hi Lạp cổ đại https://ngaydacbiet.com/nghe-thuat-kien-truc-dieu-khac-va-hoi-hoa-hi-lap-co-dai/ https://ngaydacbiet.com/nghe-thuat-kien-truc-dieu-khac-va-hoi-hoa-hi-lap-co-dai/#respond Fri, 16 Jul 2021 03:34:42 +0000 https://ngaydacbiet.com/nghe-thuat-kien-truc-dieu-khac-va-hoi-hoa-hi-lap-co-dai/ Tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Crét, Ai Cập, Babylon, người Hi Lạp (từ thế kỉ V TCN) đã tạo nên nền nghệ thuật hoàn mĩ, đậm tính hiện thực, tính dân tộc “đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn về thẩm mĩ… được dùng làm tiêu chuẩn, mẫu mực mà […]

Bài viết Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Crét, Ai Cập, Babylon, người Hi Lạp (từ thế kỉ V TCN) đã tạo nên nền nghệ thuật hoàn mĩ, đậm tính hiện thực, tính dân tộc “đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn về thẩm mĩ… được dùng làm tiêu chuẩn, mẫu mực mà chúng ta khó có thể vươn tới.

Kiến trúc

Trong các thành bang Hi Lạp, đâu đâu cũng có những công trình kiến trúc đẹp đẽ, đồ sộ, nguy nga: nhà ở, đền miếu, kịch trường, sân vận động… thể hiện phong cách Hi Lạp. Đáng kể nhất là đền thờ thần Dớt (ở Olympus), đền thờ nữ thần Atêna (trên đảo Êgin) và nhất là đền Páctênông (ở Aten) được xây dựng dưới thời Pêricơlét.

Pictênông được coi là kiệt tác của kiến trúc đền thờ cổ đại Hi Lạp. Đền thờ nữ thần Atêna – thần bảo hộ thành bang Aten – do kiến trúc sư Íchtinốt vẽ theo sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên tài Phiđiát. Đền được khởi công xây dựng từ năm 447 TCN, cơ bản hoàn thành vào năm 432 TCN, dài 70 m, ngang 31 m, cao 14 m. Nhìn từ xa, ngôi đền vừa trang nghiêm, vừa cân xứng, hài hòa, trang nhã. Toàn bộ ngôi đền bằng đá, được xây dựng trên một nền trụ đá, với 3 bậc, xung quanh có 46 cột tròn, trang trí theo phong cách Đôrien. Trên các tường, có những phù điêu lấy từ đề tài các truyện thần thoại hay diễn tả cảnh sinh hoạt kinh tế, xã hội Aten. Trong đền có tượng nữ thần Atena, cao 12 m bằng gỗ khảm vàng và ngà voi do Phiđiát thể hiện”.

Trước thế kỉ XVII, ngôi đền này còn được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh. Từ cuối thế kỉ XVII, trong cuộc chiến tranh giữa Thổ Nhĩ Kì và Vênêdia, đền Páctênông đã bị tàn phá nặng nề, nhiều hiện vật quý bị thất lạc.

Điêu khắc

Nghệ thuật điêu khắc của người Hi Lạp cổ đại cũng được xem là một mẫu mực hoàn mĩ của điêu khắc thế giới. Những tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của các nhà điêu khắc tài ba.

Tượng “Người ném đĩa” của Mirông, tượng “Thần Hécmét” và “Thần Vệ nữ” của Praxiten, tượng “Nikê” ở Samôtơrát hay “Nữ thần chiến thắng” bằng đá cẩm thạch, đặt trên một bệ đá (cũng bằng đá cẩm thạch) với đôi cánh thần lộng lẫy. Các pho tượng “Nữ thân Atêna” của Phiđiát (nhất là pho tượng “Atena” trong đền Páctênông), tượng “Người chỉ huy chiến đấu” (đặt ở quảng trường Aten), tượng “Thần Dớt” khảm ngà voi và vàng đặt trong đền thờ thần Dớt tại quảng trường Antix ở Olympus.

Hội họa

Về hội họa, người Hi Lạp cũng có những sáng tạo, thành công với các bức vẽ trên vải, trên tường và trên các đồ gốm, sành, sứ (kể cả gốm màu).

Pôlinhốt là tác giả của tranh khổng lồ “chiến dịch Maratông”. Apôtôđo đã phát minh ra phép bối cảnh trong hội họa, chú ý đến khoảng cách xa, gần cần thiết của các nhân vật và cảnh vật trong tranh. Tiếc rằng cho tới nay không còn lưu giữ được các tác phẩm vô giá của Pôlinhốt và Apôtôđo.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa Hi Lạp cổ đại đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/nghe-thuat-kien-truc-dieu-khac-va-hoi-hoa-hi-lap-co-dai/feed/ 0
Triết học cổ Hi Lạp https://ngaydacbiet.com/triet-hoc-co-hi-lap/ https://ngaydacbiet.com/triet-hoc-co-hi-lap/#respond Thu, 15 Jul 2021 22:45:29 +0000 https://ngaydacbiet.com/triet-hoc-co-hi-lap/ Hi Lạp là quê hương của nền triết học Phương Tây, được hình thành trên cơ sở của nền kinh tế Công thương nghiệp phát triển, xã hội chiếm nô đạt tới mức cao và trên nền tảng của những thành tựu khoa học tự nhiên, ít bị chi phối bởi tôn giáo. Ngay từ […]

Bài viết Triết học cổ Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Hi Lạp là quê hương của nền triết học Phương Tây, được hình thành trên cơ sở của nền kinh tế Công thương nghiệp phát triển, xã hội chiếm nô đạt tới mức cao và trên nền tảng của những thành tựu khoa học tự nhiên, ít bị chi phối bởi tôn giáo. Ngay từ xa xưa, người Hi Lạp đã sản sinh ra những tư tưởng triết học với các hình thái, xu hướng khác nhau, phản ánh những quan điểm của các giai cấp – với các khuynh hướng kinh tế và chính trị – khác nhau, trong xã hội chiếm nô Hi Lạp, đồng thời cũng phản ánh cuộc xung đột gay gắt, quyết liệt giữa các giai tầng này.

Triết học ở Hi Lạp cổ điển có nhiều trường phái tập trung trong hai phái đối lập nhau : phái duy tâm và phái duy vật.

Trường phái triết học duy vật

– Đại biểu xuất sắc nhất của trường phái triết học duy vật ở Hi Lạp là các nhà triết học nổi danh: Talét (640 – 548 TCN), Anaximăng (611 – 545 TCN), Anaximen (585 – 525 TCN), Hêracơlít (540 – 480 TCN), Anaxago (500 – 428 TCN), Ampêđốc (490 – 430 TCN), Đêmôcơrít (460 – 370 TCN), Êpiquya (341 – 270 TCN).

Nét nổi bật của triết học duy vật là các nhà triết học đều cho rằng thế giới là do vật chất tạo thành, có vận động và có biến đổi, tuy rằng quan niệm vật chất tạo thành thế giới của mỗi nhà triết học có khác nhau. Talét cho rằng nước là các bản chất của vạn vật, nước luôn thay đổi hình thái và vì thế chính nước đã sản sinh ra các vật thể khác nhau.

Anaximăng lại cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là vô cực, vô cùng rối ren, và phức tạp, luôn chia thành những mặt đối lập nhau như khô và ướt, nóng và lạnh, chính các mặt đối lập này lại kết hợp với nhau và tạo ra vạn vật.

Ngược lại với Talét, Anaximen lại cho rằng nguồn gốc của vạn vật bắt đầu từ không khí, nhờ không khí và sự chuyển động của nó, vạn vật trong vũ trụ được tạo ra và sau đó lại quay về dạng không khí.

Hêracơlít cho rằng lửa là bản chất của vạn vật, đặc biệt Hêracơlít đã nêu ra những tư tưởng duy vật biện chứng, nhấn mạnh đến tính chất vận động của vật chất thông qua sự đấu tranh giữa 2 mặt đối lập, mọi sự vật đều vận động, mọi sự vật đều biến đổi. “Người ta không bao giờ có thể tắm hai lần trong một dòng sông”.

Với Ampêđốc thì vạn vật được sinh ra không phải do đơn tố, mà do cả 4 yếu tố vật chất cấu tạo thành đó là đất, lửa, không khí và nước.

Phát triển những tư tưởng của các nhà triết học trước đó, Anaxago cho rằng vạn vật trong vũ trụ là do VÔ SỐ các nguyên tố tạo nên, các nguyên tố trong quá trình phát triển chia thành nhiều nguyên tố mới, kết hợp với nhau tạo nên vật chất theo quy luật của vũ trụ mà Anaxago gọi là “lí tính vũ trụ”.

Đêmôcơrít, sau đó là Êpiquya đã phát triển học thuyết của Ampeđốc, Anaxago và cho rằng nguyên tử – đơn vị vật chất nhỏ nhất không thể bị phân chia nữa – với các kích thước (to, nhỏ) và trọng lượng khác nhau là nguyên tố đầu tiên và cuối cùng tạo nên vạn vật.

Nhìn chung, do hạn chế của thời đại (trình độ phát triển kinh tế, cũng như trình độ khoa học kĩ thuật), các nhà triết học duy vật của Hi Lạp cổ đại chưa thể giải thích tự nhiên một cách chính xác và không giải thích được mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Những tư tưởng duy vật còn mang nặng tính thô sơ, máy móc. Tuy nhiên, các nhà triết học duy vật Hi Lạp cổ đại đã đặt cơ sở cho sự phát triển của triết học duy vật biện chứng sau này.

Trường phái triết học duy tâm

– Những đại biểu xuất sắc của trường phái triết học duy tâm ở Hi Lạp là Prôtagôrát (481 – 411 TCN), Goócgiát (483 – 375 TCN), Xôcơrát (469 – 399 TCN) và nhất là Platông (427 – 347 TCN) và Arixtốt (384 – 322 TCN).

Về mặt nhận thức, các nhà triết học duy tâm đều cho rằng không có chân lí khách quan, chỉ có nhận thức chủ quan tương đối. Chỉ có các thần thánh mới có thể nắm được nhận thức tuyệt đối và chân thực. Chính bản thân Xôcơrát đã sử dụng thái độ hoài nghi để xem xét các hiện tượng, sự vật và cũng để xem xét các vấn đề chính trị xã hội ở Aten.

Là học trò của Xôcơrát, Platông đã tiếp thu, phát triển học thuyết duy tâm của các bậc tiền bối và trở thành nhà triết học duy tâm lớn nhất của Hi Lạp. Platông cho rằng trong vũ trụ chỉ có những “ý niệm” mới là chân lí và thực sự tồn tại “ý niệm” đó là cố định, bất biến, siêu thời gian và không gian có tính chất vĩnh hằng, toàn bộ thế giới thực tại chỉ là sự phản ánh nghèo nàn của “ý niệm”. Platông luôn lên án những nhà cải cách dân chủ ở Aten, gọi Êphiantét là “kẻ đã mê hoặc quần chúng bằng những quyền tự do dân chủ quá trớn”, ông kêu gọi xóa bỏ chế độ dân chủ ở Aten và nêu ra một thiết chế xã hội lí tưởng. Trong tác phẩm “Nước lí tưởng” Platông đưa ra một nhà nước do 3 tầng lớp người hợp thành với những quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau. Tầng lớp nắm chính quyền là các vương công quý tộc và các nhà hiền triết bao gồm những người thông minh, chính trực, có đạo đức và học vấn. Tầng lớp thứ hai là các võ sĩ có nhiệm vụ bảo vệ nhà nước, giữ gìn trật tự trị an, đàn áp các sự chống phá. Tầng lớp thứ ba là những người bình dân nông dân, thợ thủ công, những thương nhân phải cần cù lao động cung cấp mọi vật phẩm cần thiết để nuôi sống xã hội.

Arixtốt là học trò của Platông là người Macedonia nhưng sinh sống ở Aten, Arixtốt chịu ảnh hưởng của cả triết học Đêmôcơrít và triết học Platông. Ông cho rằng không có ý niệm ở ngoài vật chất thực tại, nhưng ông lại cho rằng nguyên nhân để kích thích sự phát triển của sự vật lại bắt đầu từ cái gọi là “lí tính vũ trụ”. Có thể nói Arixtốt là người thuộc phái Nhị nguyên luận. Trong lịch sử Hi Lạp, Arixtốt là người đã thiết lập nên môn logic học và môn sinh vật học.

Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,

Bài viết Triết học cổ Hi Lạp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/triet-hoc-co-hi-lap/feed/ 0