Truyền thuyết - Ngày đặc biệt https://ngaydacbiet.com/category/truyen-thuyet/ Tổng hợp ngày nghỉ lễ âm lịch, dương lịch và sự kiện trong năm Fri, 16 Jul 2021 21:01:07 +0000 vi hourly 1 https://ngaydacbiet.com/wp-content/uploads/2024/07/cropped-000777066-r503366006-1-32x32.webp Truyền thuyết - Ngày đặc biệt https://ngaydacbiet.com/category/truyen-thuyet/ 32 32 Bình Khôi Công Chúa https://ngaydacbiet.com/binh-khoi-cong-chua/ https://ngaydacbiet.com/binh-khoi-cong-chua/#respond Fri, 16 Jul 2021 21:01:07 +0000 https://ngaydacbiet.com/binh-khoi-cong-chua/ Truyền thuyết Bình Khôi Công Chúa. Bình Khôi Thông Tuệ Trinh Thục Công Chúa, Đại Vương. Là tước hiệu mà triều Lê thượng phong cho bà Trưng Nhị, nguyên là phó tướng, phó vương của bà Trưng Trắc (Trưng Vương) trong cuộc khởi nghĩa mang tên Hai Bà. Cũng như chị, bà Trưng Nhị là […]

Bài viết Bình Khôi Công Chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Truyền thuyết Bình Khôi Công Chúa.

Bình Khôi Thông Tuệ Trinh Thục Công Chúa, Đại Vương. Là tước hiệu mà triều Lê thượng phong cho bà Trưng Nhị, nguyên là phó tướng, phó vương của bà Trưng Trắc (Trưng Vương) trong cuộc khởi nghĩa mang tên Hai Bà.

Cũng như chị, bà Trưng Nhị là một nữ tướng thao lược, đã cùng khởi nghĩa và lập nên nhiều chiến công hiển hách.

Ngồi trên bành voi, Hai Bà chỉ huy tướng sĩ, đốc thúc lực lượng tiêu diệt thành Luy Lâu và nhiều huyện, thành khác.

Khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, bà Trưng Trắc xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, còn bà Trưng Nhị cũng được phong vương, đóng quân ở thành Dền.

Thành Dền, tên chữ là Cự Triền, được xây dựng ở trang Cự Triền, đến nay hãy còn dấu vết, cách thành Mê Linh khoảng 9 dặm.

Thành đắp hình bán nguyệt, có tường cao hào sâu, bốn bề có tháp canh, lại có cổng thành chắc chắn, quân lính canh gác ngày đêm cẩn mật. Trong thành có chỗ ăn chỗ nghỉ cho quân sĩ, có chỗ luyện tập, thi đấu võ nghệ, lại có giếng nước, kho lương đầy đủ.

Khi trận chiến đấu ở Lãng Bạc thất thế, Hai Bà rút về thành Dền cố thủ. Quân địch đánh mãi không được, Mã Viện phải dùng kế bao vây lâu dài. Y sai đắp một thành khác, cách thành Dền 3 dặm, gọi tên là thành Vượn (thuộc xã Tam Đồng, Yên Lãng). Từ thành Vượn và từ phía Mê Linh (nơi quân giặc đã chiếm) chúng án ngữ các đường tiếp tế và tổ chức nhiều đợt tấn công vào thành Dền. Bất đắc dĩ Hai Bà phải bỏ thành Dền, lui về đất Cẩm Khê.

Tại Cẩm Khê, nhiều cuộc chiến đấu nữa diễn ra. Cuối cùng vì lực lượng ít, quân ta đã thất bại. Cả Hai Bà đều nhảy xuống sông Hát tự tận.

Lại có thuyết nói bà Trưng Nhị bị tử thương trên sông Nguyệt Đức, lúc ấy đang có bão, từng đợt sóng đang dâng lên cuồn cuộn. Quân ta thừa thế xông vào trận địa cướp lấy thi thể của vị chủ tướng rồi vượt sóng đưa về an táng trên núi Hy Sơn thuộc đất Phong Châu ngày nay.

Tại Phong Châu và thành Dền có đền thờ của bà Trưng Nhị. Còn tên của bà, từ bao đời nay, vẫn gắn liền với bà Trưng Trắc. Nhân dân gọi hai vị khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đầu tiên, đơn giản chỉ là “Hai Bà Trưng”, một cách gọi thật dân dã, gần gũi mà kính trọng.

Bài viết Bình Khôi Công Chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/binh-khoi-cong-chua/feed/ 0
Bố Cái đại vương Phùng Hưng https://ngaydacbiet.com/bo-cai-dai-vuong-phung-hung/ https://ngaydacbiet.com/bo-cai-dai-vuong-phung-hung/#respond Fri, 16 Jul 2021 20:48:25 +0000 https://ngaydacbiet.com/bo-cai-dai-vuong-phung-hung/ Truyền thuyết Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm (Ba Vì Hà Tây) xưa nay là miền đất đai trù phú, sản vật dồi dào, lại có sông ngòi bao quanh, tạo nên nhiều phong cảnh đẹp. Vào thời nước ta thuộc Đường (603-906) ở thôn này có gia đình […]

Bài viết Bố Cái đại vương Phùng Hưng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Truyền thuyết Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng.

Thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm (Ba Vì Hà Tây) xưa nay là miền đất đai trù phú, sản vật dồi dào, lại có sông ngòi bao quanh, tạo nên nhiều phong cảnh đẹp.

Vào thời nước ta thuộc Đường (603-906) ở thôn này có gia đình họ Phùng thuộc loại giàu có, truyền qua 5 đời đều là quan lang, làm tù trưởng Châu Đường Lâm (gần bằng một huyện bây giờ). Các đời trước là Phùng Khiêm, Phùng Thông, Phùng Đạt. Đến Phùng Viễn thì sinh con trai trưởng là Phùng Hưng. Ba năm sau lại sinh hai con trai nữa là Phùng Hải và Phùng Mâu.

Đến tuổi trưởng thành ba anh em họ Phùng đều là những chàng trai chí khí, đảm được hơn người. Đặt biệt, Phùng Hưng và Phùng Hải lại có thêm sức mạnh phi thường.

Một lần vào rừng, Phùng hưng bị hổ vồ nhưng nhanh nhẹn né tránh được rồi vật nhau với hổ, và cuối cùng đánh chết hổ, mang về.

Còn Phùng Hải thì đã có lần thử sức, vác cả một con thuyền nặng nghìn hộc, đi được hơn mười dặm mới dừng.

Khi người cha già yếu thì phùng hưng mới nói nghiệp, cũng làm tù trưởng Châu Đường Lâm, được các châu ấp lân cận mến phục.

Dưới ách cai trị của quan quân nhà Đường, dân ta thường ấy phải triệu trăm bề điêu đứng. Trước đó đã có các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên (năm 687) rồi của Mai Thúc Loan (năm 722) nhưng đều bị đàn áp.

Đến năm đại lịch thứ hai (767) có giặc cướp đi thuyền lớn từ biển phía nam (đảo Java) tới, Đô úy Châu Vũ Định là Cao Chính Bình đánh dẹp được. Rồi bình ở lai cái trị, bắt dân đống góp rất nặng nề.

Phùng Hưng tự nhủ: Đất nước ta từ khi có vua Hùng lập quốc, có núi tả Sông Hồng anh linh đến vạn thuở, cớ sau bây giờ vẫn phải chìm đắm mãi trong cảnh lầm than? Ta phải cùng các anh hùng hào kiệt cứu lấy gian sơn, đánh cho giặc bắt tan tành. Đất nước ta phải do người nước ta làm chủ, chứ lẽ nào phải cống nạp mãi?

Thế rồi Phùng Hưng nuôi ý định dấy binh.

Trước hết ngài bàn việc đó với hai người em. Cả hai người em cũng cùng có chí hướng như Ngài.

Vào đúng ngày đầu tháng ba (âm lịch), ba anh em lập một đàn tràng, thảo sớ tấu trình Ngọc Hoàng Thượng đế, xin về việc dấy binh khởi nghĩa sắp tới.

Đột nhiên có đám mây ngũ sắc sà xuống, một tiên ông tóc bạc trắng đỗ hạc bước ra. Anh em Phùng Hưng cúi đầu bái tạ.

Tiên ông nói:

– Ta ở Tây Vực, đi chu du chín châu tám biển, thấy hương trầm ngào ngạt, lại thấy đàn tràng thiết lập trang nghiêm, nên cảm động mà tới.

Nói xong, tiên ông lấy từ túi áo ra một chiếc móng rồng và một khối ngọc, đưa cho Phùng Hưng.

Ba anh em cúi đầu cảm tạ, nhưng vừa ngẩng lên, đã thấy đám mây ngũ sắc sà xuống, và tiên ông cưỡi hạc bay đi. Ba anh em lại vội vàng nhìn xuống …

Nhìn hai báu vật, cả ba anh em đều băn khoăn, không biết dùng để làm gì? Lại phải thỉnh cầu Thượng đế lần thứ hai vậy.

Họ thay lễ vật trên đàn tràng, thay đèn nhang và cùng quỳ xuống. Phùng Hưng đọc tờ sớ như sau:

– Chúng con lòng thành, xin kính dâng Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngài đã ban cho hai báu vật, nhưng chúng con người trần mắt tục, chưa biết dùng vào việc chi. Vậy kính mong Ngài hãy mở lòng chỉ bảo.

Phùng Hưng vừa dứt lời, đã thấy giữa không trung nổi lên một ánh chớp sáng lòa. Lập tức, bốn thiên thần đội mũ trụ, cũng cưỡi mây bay xuống. Một vị nói:

– Ngọc Hoàng phái Tiên ông xuống cho Ngài hai báu vật ấy, một làm chuôi kiếm, một làm quốc ấn. Tác thành như vậy là để Ngài dùng vào việc giữ nước.

Nói xong, cả bốn thiên thần liền cưỡi mây bay đi. Anh em Phùng Hưng chỉ còn biết quỳ xuống bái tạ.

Thế là thuận lòng trời! Sau lễ tế cáo, ba anh em chế tạo ngay một thanh kiếm thật sắc, rồi tra vào chuôi được làm từ móng rồng, ở giữa khắc ba chữ “Thiên linh kiếm”. Còn khối ngọc đã sẵn có hình vuông, chỉ khắc vào mấy chữ là thành quốc ấn. Ba anh gọi đó là “Thiên bảo ấn”.

Từ đó, Phùng Mâu ở nhà trông coi công việc trong châu, còn Phùng Hưng và Phùng Hải chia nhau đi khắp các vùng gần xa, chiêu tập hào kiệt.

Để đánh lạc hướng chú ý giặc, Phùng Hưng đổi tên Cự Lão, Phùng Hải đổi tên là Cự Lực. Sẵn có sức khỏe hơn người, hai anh em đến các sới vật thường xuyên tổ chức trong các kỳ lễ hội tại các địa phương, vừa để tham gia mà cũng vừa là cách tốt nhất để nhận mặt làm quen với các anh tài. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo.

Đi đến đâu hai anh em cũng được mọi người mến mộ. Các tay đô vật ở khắp các trang ấp đều rất mực phục tài anh em Đô Quân và Đô Bảo, lại vừa nhận thấy ở họ những tấm lòng thật hào hiệp, quảng đại, nên khi nghe nói tới việc dựng cờ khởi nghĩa, họ đều nhiệt liệt hưởng ứng và cùng nhau hẹn ngày khởi sự.

Sau mấy tháng đi khắp các vùng, anh em Phùng Hưng, Phùng Hải trở về nhà. Nhân ngày húy kỵ ông bố 11 tháng 3, ba anh em làm cỗ thật to, mời tất cả anh em, họ mạc và dân làng. Lại mời tất cả bạn bè và hàng ngũ chức sắc dưới quyền trong châu Đường Lâm, đó là các trang ấp trưởng.

Trong bữa cổ, mọi người ăn uống vui vẻ, rồi sau đó bàn sang chuyện khởi nghĩa. Anh em Phùng Hưng đưa ra “Thiên linh kiếm” và “Thiên bảo ấn”.

Các trang ấp trưởng và mọi người đều đặt tay lên ngựa mà và hứa: “Chúng tôi nguyện xin đem hết tài năng” …

Ba ngày sau, mấy ngàn dân binh đã được tuuyển mộ. Để Phùng Mâu ở lại trông coi các việc, còn Phùng Hưng, Phùng Hải mượn tiếng là đi tuần thú trong châu, đã dẫn quân chếch xuống phía nam, đến Thời Trung trang (nay là làng Chuông, tức xã Phương Trung – Thanh Oai – Hà Tây) thì dừng lại.

Đây là địa điểm thuận lợi cho việc tập luyện, phiên chế quân ngũ, vừa đủ xa để bọn giặc đóng ở thành Đại La (Hà Nội) không dòm ngó tới, lại vừa đủ gần để từ đây có thể hành quân bất ngờ tấn công quân địch.

Thời Trung trang cách thành Đại La khoảng ngoài hai chục cây số (theo đơn vị đo lường chiều dài bây giờ), hành quân nửa ngày là đã lên tới nơi.

Tại đây, như đã hẹn trước, các anh tài khắp nơi mang theo những người cùng chí hướng, lục tục tìm về. Trong vòng một tuần quân số đã lên tới hàng vạn.

Sau mấy tuần phiên chế và tập luyện, vào đầu mùa Hạ, tháng 4 – 791 (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7), theo kế của Đỗ Anh Luân một danh sĩ cùng người Đường Lâm, là bạn chơi với Phùng Hưng từ nhỏ, nay là quân sư lo việc bày binh bố trận- anh em Phùng Hưng, Phùng Hải đã mang quân chia làm hai ngả, bao vây thành Đại La trong đêm tối.

Cao Chính Bình mặc dù là viên tướng đảm lược, nhưng cũng đành chịu bó tay thúc thủ trong thành, vì quá bị bất ngờ. Không thể đem quân nống ra ngoài được, vì các nơi hiểm yếu đã bị chặn giữ, Cao Chính Bình đành phải cho một vài tên lính lanh lợi, giữa đêm tối tìm cách lẻn ra, đưa thư cấp báo về nhà Đường, xin tiếp viện.

Ba tháng ròng, thành Đại La bị vây chặt. Các đòan viện binh của nhà Đường đến đều bị quân của Phùng Hưng đánh tan. Cao Chính Bình hay tin lo lắng quá thành khối u lớn ở sau lưng. Rồi khối u vỡ, Coa chính Bình rồi cũng chết.

Khi tin Cao Chính Bình chết bay ra ngoài thành, Phùng Hưng hạ lệnh cho quân lính từ các nơi hiểm yếu, nhất loạt tiến công. Quân nhà Đường chống không nổi, phải kéo cờ trắng ra hàng.

Phùng Hưng dẫn đại binh vào chiếm Đô hộ phủ trong niềm hân hoan của mọi người. Tướng sĩ suy tôn ngài là Vi đô Tướng quân.

Vi đô Tướng quân lập tức bắt tay vào việc chấn hưng đất nước và xây thành đắp lũy, luyện tập binh mã, đẻ đối phó với nhà Đường sau này. Ngài chưa xưng Đế, nhưng thực sự đã điều hành công việc như một vị Hoàng đế. Ngài mang lại cho muôn dân cảnh no ấm, thái bình, không phải đem lễ vật cống nạp cho ngoại bang, và các thuần phong mỹ tục trong nước cũng đang được khôi phục lại.

Nhưng thật tiếc thay, những công việc mà Ngài thực thi đang tiến triển thì dừng lại, bởi cái chết đến quá đột ngột, vào đúng bảy năm sau tức năm 798, lúc đó Ngài mới đang ở độ tuổi sung mãn. Xét về công lao cũng như tài năng, đức độ, nhiều người muốn lập Phùng Hải lên thay, vì thấy ông xứng đáng nhất. Nhưng một người đầu mục phụ tá cho Phùng Hưng, và sau này phụ tá cho Phùng An, con trai trưởng của Phùng Hưng tên là Bồ Phá Cần, không tán thành.

Bồ Phá Cần là người có sức mạnh vô song, nhưng liều lĩnh và thiển cận, một mực lập Phùng An lên thay, rồi đem quân chống lại Phùng Hải. Không muốn nhìn thấy cảnh máu chảy đầu rơi, lại cốt nhục tương tàn nên Phùng Hải né tránh, cùng vài người thân tín, bỏ lên ở động Chu Nham, rồi sống cuộc đời dân giã cho đến lúc mã chiều xế bóng.

Phùng An nối nghiệp bố, nhưng là người không có đảm lược lớn. Một người như thế chỉ có thể trị vì đất nước trong cảnh thái bình, còn khi đất nước có biến động thì sẽ không đảm đương nổi.

Công việc đầu tiên mà Phùng An tiến hành là tổ chức lễ an táng cho cha thật trọng thể. Sự trọng thể lại càng tăng gấp bội phần, vì tất cả dân chúng và binh lính đều thực lòng tiếc thương vị anh hùng của mình vừa nằm xuống.

Dân chúng và binh lính đưa tang, khóc Ngài đến đỏ hoe cả hai con mắt. Họ thương tiếc, gọi Ngài là Bố Cái, tức cha mẹ, theo cách gọi của thời bấy giờ. Rồi họ lại gọi Ngài là Đại vương, như trước đó vẫn gọi Ngài như thế. Phùng An con trai Ngài, do cảm nhận được những tình cảm ấy của dân chúng và binh lính cũng suy tôn Ngài làm “Bố Cái đại vương”. Và cái tên ấy còn mãi đến ngày nay. Nhưng tiếc thay, Phùng An là người tài hèn trí mọn, không nối được cái chí của cha, chú. Hai năm sau Đường Đức Tông sai Triệu Xương sang làm An Nam Đô hộ phủ. Xương đi sau, sai sứ giả đem đồ lễ vật đi trước để dụ dỗ An. An sắp xếp nghi vệ đầy đủ, dẫn quần thần ra hàng.

Những người họ Phùng nhiều chí khí và nhiều người họ khác nữa, thấy vậy, bèn tản đi các nơi, không muốn ở lại hợp tác với giặc.

Khi Phùng Hưng mất, mộ được táng tại phía tây bắc Kinh thành và được lập miếu thờ. Ngày nay, ở đầu phố Giảng Võ – Hà Nội, vẫn còn ngôi mộ của Ngài, trên có văn bia, đề bốn chữ “Phùng Hưng cố lăng”. Còn tại quê hương của Ngài, ngay từ khi Ngài mới mất, dân chúng đã lập miếu thờ. Truớc là để tỏ lòng nhớ thương, còn sau là để cúng lễ, cầu mong Ngài ban cho mưa thuận gió hòa, tai qua nạn khỏi hoặc làm ăn phát đạt.

Tất cả đều thấy ứng nghiệm, vì vậy “mỗi khi vào ngày tạ lễ, người đến nhiều như núi như biển, bánh xe chật đường”. Về sau, dân chúng xây dựng thêm,”miếu maọ nguy nga, lửa hương bất tuyệt”(theo Việt điện u linh).

Đúng 100 năm, sau ngày Ngài mất, cũng tại quê hương của ngài (Đường Lâm), một người anh hùng nữa đã ra đời. Đó là Ngô Quyền (898 – 944). Sau khi giết Kiều Công Tiễn trả thù cho bố vợ (Dương Đình Nghệ), Ngô Quyền xưng vương, rồi đánh tan quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng. Trước trận đó, thấy quân giặc đông, nhà vua cũng có phần lo lắng, nhưng đêm nằm mộng, bỗng thấy một ông già tóc bạc, mũ áo nghiêm trang … xưng là Phùng Hưng đến cổ vũ và hứa sẽ đem vạn đội thần binh mai phục trước ở chỗ hiểm yếu” (theo Việt điện u linh).

Sau trận thắng, nhà vua tạ ơn, xuống chiếu lập đền thờ Phùng Hưng ở làng Cam Lâm to hơn quy mộ cũ, và tổ chức lễ hội thật trọng thể. Từ đó thành điển lệ. Các triều đại về sau đều có sắc thượng phong: “Phụ hựu”, “Chương tín”, “Sùng nghĩa”. Đó là những tên hiệu mà các triều Trần trùng hưng đã tặng thêm cho Ngài.

Ngày nay, nhiều trường học, đường phố cũng mang tên Ngài.

Bài viết Bố Cái đại vương Phùng Hưng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/bo-cai-dai-vuong-phung-hung/feed/ 0
Đại thánh Từ Đạo Hạnh https://ngaydacbiet.com/dai-thanh-tu-dao-hanh/ https://ngaydacbiet.com/dai-thanh-tu-dao-hanh/#respond Fri, 16 Jul 2021 20:26:53 +0000 https://ngaydacbiet.com/dai-thanh-tu-dao-hanh/ Truyền thuyết Đại thánh Từ Đạo Hạnh.. Ngài họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, sống vào thời Lý Nhân Tông, tu tại chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Là nhà tu hành nổi tiếng thông tuệ, uyên bác, có nhiều thuật pháp cao siêu, được đương […]

Bài viết Đại thánh Từ Đạo Hạnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Truyền thuyết Đại thánh Từ Đạo Hạnh..

Ngài họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, sống vào thời Lý Nhân Tông, tu tại chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Là nhà tu hành nổi tiếng thông tuệ, uyên bác, có nhiều thuật pháp cao siêu, được đương thời và hậu thế xưng tụng là bậc đại thánh.

Tượng Đại thánh Từ Đạo Hạnh tọa lạc tại chùa Thầy
Tượng Đại thánh Từ Đạo Hạnh tọa lạc tại chùa Thầy, Hà Nội

Lai lịch

Cha Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh, thuở nhỏ xuất gia theo học đạo Phật, nhưng sau đó hoàn tục làm chức Đô sát ngạch tăng quan đời Lý, trong kinh thành. Những lúc rỗi rãi, Từ Vinh thường đến làng An Lãng ở phía tây kinh thành (tức làng Láng bây giờ) dạo chơi, rồi quen biết và lấy một người con gái làng ấy tên gọi Tăng Thị Loan. Ông bà sinh được hai người con, một gái một trai. Đạo Hạnh là con thứ hai. Nhà cũng làm ở trên mảnh đất phía Nam của làng ấy (nay là chùa Láng).

Về sau người ta bảo rằng kiểu đất mà ông Từ Vinh dựng nhà là kiểu đất quý, nên sinh được Từ Đạo Hạnh ngay từ nhỏ đã có khí cốt tiên Phật. Tuy vậy, khi đến tuổi cấp sách đến trường Từ Đạo Hạnh cũng chỉ chơi bời như mọi trẻ con khác, và nếu có điều gì khác thường là ở chỗ: Từ Đạo Hạnh có những cử chỉ mà người xung quanh ít khi lường tới được.

Bạn bè mà Đạo Hạnh kết giao ở tuổi thanh niên gồm có ba vị: Một là nho sinh tên gọi Phi Sinh, một là đạo sĩ tên gọi Lê Toàn Nghĩa, và một nữa là người hay đàn hay hát tên gọi Phan Ất. Cả bốn người ban ngày thường hay tụ tập nhau lại để đá cầu, thổi sáo, đánh bài và bày ra các trò vui nhộn. Ông Từ Vinh, vốn quan tâm đến sự học hành và sự nghiệp của con sau này, đã nhiều lần trách mắng Từ Đạo Hạnh là đồ lêu lổng, dông dài, nhưng bên ngoài xem ra chàng ta cũng chẳng mấy biến chuyển.

Một hôm đêm đã khuya, ông Từ Vinh vào buồng học của con, thấy sách vở bày ra la liệt, ngọn đèn dầu lạc đã cháy gần tàn mà con ông vẫn đang tay cầm quyển sách, vừa học vừa ngủ gật. Ông hài lòng, biết là con vẫn chăm học, còn sự chơi bời ban ngày chẳng qua là thói thường của tuổi thanh niên. Sau đó ít lâu, nhà vua mở khoa thi Bạch Liên, quả nhiên, Từ Đạo Hạnh đã đỗ thứ nhất thật.

Nhưng chẳng may, trong thời gian ấy, trước kỳ thi chỉ ít ngày, thì ông Từ Vinh có xích mích với ông Diên thành hầu nhà ở mạn cầu An Quyến cạnh sông Tô Lịch (Còn nhà của Từ Vinh ở An Lãng thuộc phía trên, cũng cạnh sông Tô Lịch). Trong nhà của Diên thành hầu có nuôi một vị pháp sư tên gọi Đại Điên, pháp thuật cao cường. Đại Điên đã đến nhà, dùng bùa phép giết chết ông Từ Vinh, rồi vứt xác xuống sông. Xác trôi đến trước cửa nhà Diên thành hầu thì tự nhiên dừng lại, suốt một ngày quanh quẩn ở đấy, không chịu trôi đi. Đại Điên xuống tận nơi hét to lên rằng: “Người tu hành không được giận mãn kiếp. Sống chỉ là một trường đùa bỡn, còn chết mới thành đạo Bồ đề!”

Đại Điên vừa dứt lời thì xác Từ Vinh trôi đi liền, nhưng đến xã Nhân Mục thì lại dừng thêm một lần nữa. Người làng này thấy vậy cho là linh thiêng, bèn vớt lên hậu táng, rồi sau đó dựng lăng miếu và đắp tượng thờ, hàng năm tổ chức tế lễ vào ngày mồng 10 tháng giêng, là ngày giỗ của Từ Vinh.

Bà Tăng Thị Loan, sau đó mấy tháng cũng buồn rầu mà chết. Mộ bà táng tại chùa Ba Lăng ở xã Thượng An. Sau này Từ Đạo Hạnh hiển đạt, chùa Ba Lăng (sau cải là chùa Hoa Lăng) được chọn làm nơi thờ cha mẹ của Ngài, gọi là chùa Thánh phụ và Thánh mẫu.

Đến với của Phật

Lại nói về Từ Đạo Hạnh, sau khi đỗ đạt gặp lúc gia cảnh đau buồn, tang tóc như thế, nên không ra làm quan, mà ở nhà nung nấu ý chí phục thù cho cha. Một hôm, rình lúc Đại Điên đi ra ngoài đường, Từ Đạo Hạnh cầm gậy xông đến toan gây sự để đánh chết, nhưng chợt nghe trên không có tiếng hét lớn: “Không được! Thôi ngay đi!”. Thế là Từ Đạo Hạnh đành bỏ gậy xuống ra về, trong lòng vừa buồn bực vừa đau xót.

Biết mình không có pháp thuật gì thì làm sao mà đánh lại Đại Điên được, nên Từ Đạo Hạnh cất công sang tận chùa bên Ấn Độ để cầu phép lạ. Tuy vậy, khi qua đất có người răng vàng ở, Đạo Hạnh thấy núi non hiểm trở không thể vượt qua được, bèn quay lại, tìm đến chùa Thiên Phúc ở trên núi Sài Sơn để ẩn cư. Từ đấy Từ Đạo Hạnh chuyên tâm đọc kinh Đại bi đà la.

Đây là bộ kinh dày, nói về giáo lý của nhà Phật và cũng chứa đựng cả những thuật pháp cao siêu, mà phải là người thông minh, có trí lực, lại kiên trì, mới có thể đọc và hiểu thấu nổi. Vậy mà Đạo Hạnh đã dày công, đọc đủ mười vạn tám nghìn (18.000) lần bản kinh ấy. Xem thế đủ biết, Ngài đã dụng công và kiên trì đến mức nào rồi!

Ở trước chùa Thiên Phúc nơi Ngài tu luyện ngày ấy có hai cây thông cổ thụ, dân chúng trong vùng vẫn quen gọi là hai cây “rồng”. Do ngày nào cũng như ngày nào, Đạo Hạnh đều trông vào cây mà đọc thần chú lấy từ kinh Đại bi đà la ra, cho nên đến khi cây phải rơi rụng dần cành lá, rồi biến mất đi cả, thì Ngài hiểu Đức Quan Thế Âm đã ứng hộ vào lời chú của Ngài. Từ đấy, Ngài lại càng ra sức đọc kinh và niệm chú nhiều và chăm hơn nữa, để cầu cho lời của Ngài được thấu đến tận Thiên cung.

Một hôm đang ngồi tụng niệm, quả nhiên Ngài thấy một thần nhân cưỡi mây từ không trung sà xuống trước mặt, đứng lơ lửng chân không sát đất, mà nói:

– Đệ tử là Trấn Thiên Vương, cảm phục thầy dày công tu luyện, lại kiên trì tụng kinh niệm Phật, nên lại đây để thầy sai khiến.

Đạo Hạnh vô cùng hài lòng, gật đầu thu nạp đệ tử, rồi hẹn khi nào cần sẽ thỉnh đến sau. Trấn Thiên Vương lại biến lên mây bay đi liền.

Vẫn canh cánh mối thù cha chưa trả được, một hôm Từ Đạo Hạnh xuống núi, cầm gậy ném xuống dòng nước đang chảy xiết. Gậy tự nhiên dựng đứng lên, rồi đi ngược cả dòng nước. Đạo Hạnh cả mừng, tự nhủ: “Phép của ta đã thắng được Đại Điên rồi!”

Thế là Đạo Hạnh thu lấy gậy, đi thẳng tới nhà Đại Điên. Vừa giáp mặt, Đại Điên đã cười khẩy: “Thằng nhãi kia! Mày không nhớ chuyện lần trước hay sao mà còn dám đến đây?” Đạo Hạnh cả giận, chẳng thèm trả lời, nhưng miệng nhẩm thần chú thỉnh Trấn Thiên Vương tới, rồi cứ thế cầm gậy đánh cho Đại Điên ngã dúi dụi. Đại Điên trở tay không kịp và trên không trung lúc ấy cũng tịnh không có một tiếng gì để ngăn lại như lần trước, vì vậy, chỉ được một lát thì Đại Điên đã lăn ra chết.

Đạo Hạnh bèn kéo xác Đại Điên ra bờ sông Tô Lịch, rồi quăng xác xuống, như trước kia Đại Điên đã từng làm như thế với Từ Vinh.

Bài viết Đại thánh Từ Đạo Hạnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/dai-thanh-tu-dao-hanh/feed/ 0
Truyền thuyết Đền Cờn https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-den-con/ https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-den-con/#respond Fri, 16 Jul 2021 19:51:19 +0000 https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-den-con/ Đến đời Trần Nhân Tông, đạo Phật ở nước ta đã bước vào giai đoạn cực thịnh. Chùa chiền mọc lên khắp nơi, từ Kinh đô đến thôn xóm, từ đồng bằng đến trung du và các miền ven biển. Ngay bản thân nhà vua, sau hai lần lãnh đạo kháng chiến chống giặc Nguyên […]

Bài viết Truyền thuyết Đền Cờn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Đến đời Trần Nhân Tông, đạo Phật ở nước ta đã bước vào giai đoạn cực thịnh. Chùa chiền mọc lên khắp nơi, từ Kinh đô đến thôn xóm, từ đồng bằng đến trung du và các miền ven biển. Ngay bản thân nhà vua, sau hai lần lãnh đạo kháng chiến chống giặc Nguyên thắng lợi, vào các năm 1285 và 1292, cũng nhường ngôi lại cho con, rồi xuống tóc đi tu, trở thành vị Tổ thứ nhất của phái Tu thiền Trúc lâm với pháp danh Điều Ngự. Số người tu hành của thời đó rất đông. Nhiều người xuất gia từ bé, nhưng nhiều người đã từng lập gia đình rồi do trắc trở nhân duyên, nên mới tìm đến cửa Phật. Trong trường hợp ngược lại, nhiều vị tu hành nhưng do những hoàn cảnh đặt biệt nào đó đưa đẩy, đã hoàn tục trở lại, thì điều ấy, xét ra cũng là lẽ thường tình mà nhà sư trụ trì ở ngôi chùa cửa Cờn là một ví dụ.

Đền cờn ngày nay
Đền cờn ngày nay

Thuở ấy ở xã Hương Cần thuộc Quỳnh Lưu (Nghệ An) bây giờ, có một ngôi chùa dựng trên một hòn đảo nhỏ ở cửa Cờn. Tiếng là chùa nhưng kiến trúc còn đơn sơ, chỉ là ngôi nhà lá ba gian ở khuất hướng gió biển và bên trong đặt vài pho tượng Phật. Trụ trì trong chùa là một vị sư ông ở độ tuổi ngoài bốn mươi và một chú tiểu nhỏ giúp việc. Hai thầy trò tình nguyện ra đây, vừa tu hành nhưng cũng để vừa giúp đỡ những người đi biển gặp nạn vì đảo cũng thường xuyên là nơi tránh bão của dân chài.

Nhà sư vốn xuất thân là một nho sinh, đã từng liều chõng đến trường thi, nhưng do không đỗ lại gia cảnh sa sút nên cũng đành xếp bút nghiên, để gởi mình vào cửa Phật. Ở nơi đảo vắng, quanh năm chỉ nghe tiếng sóng vỗ bờ, lương thực chính yếu do dân chài ghé qua cung cấp, tưởng cũng là nơi tốt nhất để có thể dứt bỏ bụi trần một cách thực hiệu nghiệm. Vừa tu luyện vừa năng giúp người cứu người, quả là một điều kiện lý tưởng cho một vị tu hành muốn mau đắc đạo. Nào ngờ sự đời cũng thật lắm nỗi éo le, không thể lường trước được. Khi mà nhà sư đang còn là một con người khang kiện, buổi thiếu thời đã từng xây dựng nhiều mộng ước đẹp cho tương lai, thì việc có bị “nhuốm” lại bụi trần, âu cũng là điều cần được thể tất, như ở phần sau này sẽ rõ.

Thời ấy ở Trung Hoa, nhà Kim sau khi diệt xong nhà Bắc Tống liền cho viên tướng là Trương Hồng Phạm đi đánh úp quân Nam Tống ở Nhai Sơn. Quân Nam Tống đại bại. Quân Kim thừa thắng đang ào ạt tràn tới Kinh đô , triều đình Nam Tống thật vô cùng nguy ngập. Nhiều vị đại thần đã phải tự sát. Trong tình thế ấy, viên Tả thừa tướng Lục Tú Phu vội vã hộ giá nhà vua vừa mới lên ngôi là Đế Bính xuống thuyền để đi lánh nạn. Cả hoàng cung, các triều thần và gia quyến của họ cũng vội vã xuống thuyền. Quân hồi vô lệnh, tất cả quân lính và tướng sĩ thấy thế cũng ùa cả theo. Thuyền bè chưa kịp chuẩn bị, lại có quá nhiều người đeo bám, nên ra đến ngoài khơi, gặp phải một cơn bão không phải lớn lắm mà tất cả thuyền bè đều bị đắm. Nhà vua, hoàng hậu, các đại thần … Thấy cũng đều chung số phận …

Chỉ có ba mẹ con một vị phu nhân, vốn là công chúa con gái út của đời vua trước, may mắn thoát nạn nhờ cùng bám vào một cây cột buồm lớn. Vị phu nhân cũng khá lanh lợi, đã biết kịp lấy dây ở cột buồm buộc vào người, cho mình và cho hai con gái, nên đã không bị sóng biển đánh bật đi. Cả ba mẹ con cùng chiếc cột buồm theo luồng nước, trôi mãi về biển phương Nam, dạt đến bên ngoài vùng cửa Cờn, nơi có hòn đảo, ngôi chùa và nhà sư trụ trì , như đã nói ở phần trước.

Bài viết Truyền thuyết Đền Cờn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-den-con/feed/ 0
Truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-duc-thanh-tan-vien/ https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-duc-thanh-tan-vien/#respond Fri, 16 Jul 2021 19:12:53 +0000 https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-duc-thanh-tan-vien/ Đức Thánh Tản Viên (Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh) trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là một trong bốn vị Thánh bất tử (Tiên Dung Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Tản Viên, Thánh mẫu Liễu Hạnh ). Đây là vị Thánh biểu đạt cho những khả năng […]

Bài viết Truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Đức Thánh Tản Viên (Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh) trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là một trong bốn vị Thánh bất tử (Tiên Dung Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Tản Viên, Thánh mẫu Liễu Hạnh ). Đây là vị Thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.

Nguồn gốc của Đức Thánh Tản Viên

Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này:

– Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là “hạo khí anh linh của trời đất sinh ra” (Kiều Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho “Tản Viên là một trong 50 người con theo cha xuống biển của Lạc Long Quân, Âu Cơ” (Đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19). Chàng “từ biển đi vào, qua cửa Thần phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang”. Từ đấy, ” nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình”, nên chàng “đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi” (Trấn Thế Pháp, cũng trong “Lĩnh Nam chích quái”, nhưng là một di bản). Các tác giả ” Lịch triều hiến chương” (Phan Huy Chú) và “Việt sử thông giám cương mục” … cũng đều có những quan niệm tương tự.

– Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ trong dân chúng.

Chúng tôi nhận thấy, quan niệm này phù hợp với những quan niệm chung đã có về các Thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng “Thánh Tản Viên” có tính nhất quán và hoàn chỉnh mà nếu so sánh thì các quan niệm của các học giả thời phong kiến chỉ là rất phiến diện.

Tuổi thơ – Trưởng thành – Khi là người thường

Dưới đời Hùng Vương thứ mười tám, ở động Lăng Xương bên bờ sông Đà có vợ chồng ông Nguyễn Cao Hạnh, bà Đinh Thị Điên làm nghề đốt than. Đã đứng tuổi rồi mà ông bà vẫn chưa có con, nên đêm ngày mong ước, cầu nguyện có một đứa con trai nối dõi …

Một hôm bà vào rừng kiếm củi, đến trưa thấy nóng bức bèn tìm đến một hồ nước nhỏ ở cạnh để tắm. Nào ngờ đang tắm, bà bỗng thấy một con rồng từ trên cao cũng xà xuống đấy. Thế là bà mang thai, nhưng đến 14 tháng sau, mới sinh ra một đứa con trai trên tảng đá Thạch Bàn (nay thuộc xã La Phù, Vĩnh Phú). Ông bà vô cùng sung sướng, đặt tên là Tuấn, vì thấy nó mặt mũi trông cũng khôi ngô, sáng sủa.

Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì ông bố già yếu rồi mất. Còn lại hai mẹ con, bà Đinh Thị Điên thấy cảnh làm ăn cơ cực bèn dắt con sang mé chân núi Ngọc Tản (Ba Vì) nương nhờ trong nhà bà họ Ma.

Bà họ Ma này vốn là một tù trưởng giàu có. Chồng chết, không có con, nhưng cơ ngơi nhà bà rất lớn, gồm tất cả sông núi, ruộng đất, khe lạch ở vùng Ngọc Tản. Nhà bà lại có rất nhiều gia nhân, đầy tớ và bà cũng là người có sẵn tấm lòng từ bi, đại lượng, nên được mọi người hết sức quý trọng.

Lúc đầu, hai mẹ con bà Đinh Thị Điên ở trong nhà bà họ Ma làm gia nhân. Vì bà là người hiền lành, chất phác, lại chăm chỉ công việc, nên được bà họ Ma mến mộ và hay trò chuyện. Chú bé Nguyễn Tuấn, vừa khôi ngô lanh lợi, lại vừa lễ phép, siêng năng, nên cũng được bà hết sức quý mến. Dần dà bà họ Ma nhận Nguyễn Tuấn làm con nuôi, và đối xử với chú hệt như con đẻ.

Khi Nguyễn Tuấn đến tuổi trưởng thành thì bà Đinh Thị Điên già yếu rồi qua đời. Chàng ở hẳn với mẹ nuôi, và chăm nom, phụng dưỡng bà chẳng khác nào mẹ đẻ. Lúc ấy, chàng là một chàng trai sức vóc, lại đảm đang, tài tuấn hơn người, nên được bà họ Ma quý mến, tin tưởng, và giao cho cai quản tất cả công việc, từ trong nhà đến ngoài đồng bãi. Ít lâu sau, bà họ Ma già yếu rồi cũng qua đời. Trong lúc lâm chung, trước mặt đông đủ gia nhân, đầy tớ, bà trối trăng lại: giao tất cả sản nghiệp cho con nuôi là Nguyễn Tuấn cai quản. Sau khi làm ma và chôn cất cho bà mẹ nuôi xong, Nguyễn Tuấn nghiễm nhiên trở thành một vị tù trưởng. Tuy nhiên, địa vị này đã không làm cho bản chất của chàng thay đổi.

Không như nhiều kẻ nghèo khó sau này, khi được giàu sang thì lập tức quên ngay nguồn gốc xuất xứ, mặt mày vênh vênh váo váo và đối xử tàn nhẫn với đồng loại cứ y như một sự trả thù. Trái lại, Nguyễn Tuấn lại là một chàng trai cực kỳ tốt bụng và hay thương người. Trong trang trại, chàng bãi bỏ hẳn chế độ gia nhân, đầy tớ: Từ đây mọi người sẽ cùng ăn cùng làm, còn chàng chỉ là người đứng mũi chịu sào, vừa làm lụng vừa lo toan quán xuyến công việc, mà thôi. Ai siêng năng chăm chỉ được chàng khuyến khích, động viên. Ai khó khăn, cơ nhỡ được chàng chăm sóc, giúp đỡ. Ai chây lười hoặc làm điều gì sai trái thì chàng khuyên nhủ, bảo ban. bản thân chàng là một tấm gương sáng, ai nhìn vào cũng thấy. Do vậy, trong khắp trang trại rộng lớn mà chàng cai quản, mọi người coi nhau như ruột thịt, nhường cơm sẻ áo cho nhau, và tuyệt nhiên không có những chuyện như chây lười, trộm cắp, hoặc chửi bới, gây gổ đánh nhau.

Đối với những việc hiếu nghĩa, chàng lại càng đặc biệt coi trọng. Mộ phần của cả ba bố mẹ được chàng thường xuyên chăm sóc gọn gàng, sạch sẽ. Ngày tuần ngày tiếp, ngày kỵ ngày giỗ … chàng đều đến thắp đèn nhang và dâng lễ vật chu đáo. Trước vong linh của người quá cố, bao giờ chàng cũng đều tóc để xõa, chắp hai tay, khấn vái thật là trang trọng, thành kính.

Vào đầu năm mới, hay sau các kỳ thu hoạch lúa, hoa màu và đi săn về, chàng đều cùng mọi người làm lễ tạ trời đất, thổ thần, thổ địa, và cầu mong cho sự yên ấm thịnh vượng đời đời.

Lòng thương người của chàng đã làm cho mọi người thật sự cảm phục, kính nể. Còn lòng hiếu nghĩa của chàng thì được mọi người hết sức ca ngợi, noi gương. Tiếng lành đồn xa: những đức tính của chàng được nhiều nơi đến, và đã cảm ứng tới cả đất trời.

Bài viết Truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/truyen-thuyet-duc-thanh-tan-vien/feed/ 0
Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu https://ngaydacbiet.com/do-thong-thuong-tuong-le-phung-hieu/ https://ngaydacbiet.com/do-thong-thuong-tuong-le-phung-hieu/#respond Fri, 16 Jul 2021 17:57:52 +0000 https://ngaydacbiet.com/do-thong-thuong-tuong-le-phung-hieu/ Lê Phụng Hiểu sống vào khoảng đầu thời Lý. Ngài là người làng Băng Sơn, nay là Hương Sơn, Dương Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Vì nhà ở gần núi Bơng, một hòn núi nhỏ ở giữa cánh đồng, nên dân chúng trong vùng thường gọi Lê Phụng Hiểu thời trẻ là anh Bơng, rồi […]

Bài viết Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Lê Phụng Hiểu sống vào khoảng đầu thời Lý. Ngài là người làng Băng Sơn, nay là Hương Sơn, Dương Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Vì nhà ở gần núi Bơng, một hòn núi nhỏ ở giữa cánh đồng, nên dân chúng trong vùng thường gọi Lê Phụng Hiểu thời trẻ là anh Bơng, rồi đến khi hiển đạt là ông Bơng, một cái tên vừa hồn nhiên vừa thán phục. Cũng như Lý Công Uẩn, vua sáng lập triều Lý, Lê Phụng Hiểu không có cha đẻ. Mẹ Ngài khi trước lên núi trông thấy một dấu chân lạ to lớn khác thường bèn ướm thử bàn chân mình vào về nhà mà có mang, rồi sinh ra Ngài. (hơi giống giống truyền thuyết Thánh Gióng)
Thuở nhỏ, Lê Phụng Hiểu không được học chữ nhưng thiên hướng con nhà võ thì đã lộ rõ. Khi đến tuổi thanh niên, Ngài cao lớn vạm vỡ, mặt mũi phương phi, râu quai nón rậm và có sức mạnh phi thường. Tính tình Ngài cương trực, quyết đoán. Các môn võ nghệ, từ côn quyền đến phóng lao, cung kiếm … Ngài đều tinh thông. Để rèn luyện thể lực, buổi sáng Ngài thường lên đỉnh núi Bơng, dùng một hòn đá cực lớn để tập cử tạ. Hòn đá này nặng phải đến bốn người khỏe mạnh xúm vào mới nhấc lên nổi!

Vào mùa hội hè, Ngài thường đến các sới vật trong vùng để tranh tài lĩnh thưởng. Tuy mới là mùa thi đấu đầu tiên, nhưng những tay đô vật lừng lẫy nhất trong vùng, chỉ vừa mới trông thấy Ngài, đã vội chắp tay vái dài, không dám vào giao đấu nữa.

Thời ấy, ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) cũng có một tay đô vật kỳ tài tên là Tuấn, tục gọi là đô Vồm. Nghe tiếng ở Hoằng Hóa có đô Bơng mới lên không ai địch nổi, đô Vồm tìm đến thách đấu.

Bữa đô Vồm tìm đến nhà đô Bơng thì thấy bà mẹ đang lúi húi dưới bếp. Bà mẹ nói:

– Bác ráng chờ cháu một lát. Nó đi kiếm củi chắc lúc này cũng sắp về rồi.

Quả nhiên, đang ngồi uống nước, bà mẹ đã chỉ cho khách thấy trên con đường núi phía trước mặt một người cao lớn vạm vỡ gánh hai bó củi to như hai bó rạ, đang đi thoăn thoắt về nhà. Bà mẹ vừa chỉ vừa nói với khách:

-Đấy. Cháu nó đấy!

Đô Vồm chột dạ, không dám nghĩ đến chuyện thách đấu nữa, bèn nói với bà mẹ:

– Thôi, xin phép bà để bữa khác tôi lại. Chắc chiều nay chú ấy còn phải gánh củi đi chợ nữa …

Nói rồi ông khách đứng dậy liền, bà mẹ giữ lại không được. Vừa ra khỏi cổng, chân khách đã bước nhanh như chạy …

Lê Phụng Hiểu gánh củi về nhà, thấy mẹ nói có khách vừa ra khỏi, bèn đặt gánh củi xuống rồi chạy đi tìm. Chẳng mấy chốc Ngài đã theo kịp khách ở giữa cánh đồng.

Lê Phụng Hiểu nói to với theo:

– Này … bác gì ơi. Tôi về rồi. Mời bác quay lại.

Đành lòng, đô Vồm phải dừng lại:

– À … tôi tưởng chú bận.

Đô Bơng vồn vã:

– Nào, có bận gì đâu?

Vừa giáp mặt, cả hai đều đo lường sức mạnh của nhau. Cả hai đều to lớn, bắp chân bắp tay cuồn cuộn.

Đô Vồm nói:

– Nghe danh chú mấy bữa nay, cũng muốn đến để học hỏi thêm, nhưng bây giờ chắc không tiện.

Đô Bơng hiểu ý ngay: “Ông này lớn tuổi hơn mình. Nói thế chắc là ngại đây. Nhưng dẫu sao cũng thử sức một tí cho biết chứ?”, bèn đáp lại:

– Tôi hậu sinh còn phải học bác nhiều. Tiện đây rộng rãi, ta thử một vài “queo” cho biết. Anh hùng tao ngộ dễ mấy khi có dịp …

Không thể từ chối, đô Vồm đành phải cởi quần áo ra rồi hai bên giao đấu. Ở giữa cánh đồng, không trọng tài, không khán giả, nhưng hai bên đấu thủ đều giữ đúng luật lệ. Người tám lạng, kẻ nửa cân, đã bảy “queo” mà chưa phân thắng bại. Tuy vậy, càng đấu, đô Bơng càng tỏ ra dẻo dai, rồi cuối cùng đến “queo” thứ tám, đô Vồm đã phải nằm phơi bụng.

Đô Vồm nói:

– Thôi thôi! Ta phục tài chú rồi.

Đô Bơng cả cười:

– Bác cũng thực khá lắm.

Nói rồi, cả hai đứng dậy, rồi dắt nhau về nhà uống rượu …

Từ đó Lê Phụng Hiểu nổi tiếng là người tài cao và hào hiệp trong suốt mấy vùng. Đi đến đâu Ngài cũng có bạn bè tâm đắc.

Một hôm, có việc Ngài đi qua hai làng Cổ Bi, Đàm Xá, lúc ấy đang um xùm lên vì việc tranh nhau đất cát. Làng Đàm Xá cậy đông người đã chém hẳn doi đất màu mỡ mà lẽ ra phải thuôïc làng Cổ Bi. Trai tráng làng Cổ Bi đang cùng nhau chuẩn bị gậy gọc chống lại, còn các cụ bô lão trong làng thì có phần tỏ ra lo lắng.

Sau khi biết mọi chuyện, Lê Phụng Hiểu tìm đến ra mắt các cụ làng Cổ Bi mà bảo:

– Các cụ cứ yên tâm. Có tôi đây dẫu có mười làng Đàm Xá cũng chẳng chiếm không ruộng của Cổ Bi được.

Đã nghe danh đô Bơng từ lâu nên các cụ cùng dân làng mừng lắm, bèn làm cỗ để tiếp đãi Ngài. Cả năm mâm cỗ to, nào thịt nào rượu, nào xôi, vậy mà Ngài cứ thủng thỉnh ngồi ăn bằng hết. Ăn xong, Ngài xúc miệng, uống một tợp nước rồi lăn ra ngủ, tiếng gáy vang như sấm.

Chờ cho giấc ngủ của Ngài đã đẫy, trai tráng Cỗ Bi bèn vác gậy gọc ra khiêu chiến với làng Đàm Xá. Trai tráng Đàm xá cũng vác gậy ra vây kín cả một doi đất. Chính lúc ấy, Lê Phụng Hiểu thức dậy. Ngài vươn vai một cái, rồi chẳng nói chẳng rằng, “phi” một hơi đến chỗ giáp chiến. Ngài đi một đường quyền nhảy tới giật gậy trong tay một đối phương, rồi cứ thế múa tít, đến chỗ nào người phải dãn ra đến đấy. Khoảng hơn chục tay mạnh mẽ, liều lĩnh nhất của làng Đàm Xá xúm vào chỗ Ngài, nhưng chỉ được một chặp, hơn một nữa đã phải ngã gục, số còn lại thì quay đầu chạy.

Ngài tiến đến những chỗ đang đánh nhau, nhưng bấy giờ thấy gậy đã gãy, Ngài bèn quăng nó đi. Không thèm nhặt những chiếc gậy rơi, Ngài nhổ phăng những khóm cây bên đường rồi cứ thế cầm cả cụm cây mà phang vào đối phương, làm cho họ tối tăm mày mặt phải quay cổ chạy thục mạng.

Làng Cổ Bi toàn thắng. Làng Đàm Xá phải trả lại doi đất, và từ đấy, hễ cứ gặp dân làng Cổ Bi là đều phải gọi một điều “quan anh”, hai điều “quan bác” cả …

Thời bấy giờ, Lý Thái Tổ đã lên ngôi thay Lê Ngọa triều. Vốn xuất thân là anh lính “Tứ sương quân” (tức quân bảo vệ bốn mặt kinh thành) nên nhà vua hiểu rất rõ giá trị và tác dụng của quân túc vệ. Ngài cho tuyển những người khỏe mạnh, can trường và trung thành nhất vào đội quân này, để cho cùng đi theo, mỗi khi Ngài xa giá đến các nơi. Lê Phụng Hiểu, người nổi tiếng khắp cả vùng châu Ái, lẽ dĩ nhiên phải là một trong những người đầu tiên trúng tuyển.

Từ khi được tuyển dụng, qua mấy phen thử sức thử tài, lại cần mẫn siêng năng, nên Lê Phụng Hiểu được nhà vua mến mộ rồi cất nhắc dần lên tới chức Vũ vệ tướng quân, ngang hàng với các tướng Đàm Thảm, Dương Bình, Quách Thịnh Dật, Lý Huyền Sư, vốn là những người đã được bổ dụng từ trước. Các tướng này đều chỉ huy quân túc vệ và nằm dưới quyền cai quản của quan Nội thị Lý Nhân Nghĩa.

Lý Thái Tổ thọ 55 tuổi (974 – 1028), ở ngôi 18 năm (1010 – 1028) băng hà ở điện Long An, và đang còn quàn tại đấy chưa chôn.

Các đại thần theo di chiếu cùng nhau đến cung Long Đức ở ngoài thành để lập con trưởng là Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi (cung Long Đức đặt ở ngoại thành là ý nhà vua muốn cho Thái tử biết mọi việc của dân).

Triều Lý có lệ là lập các con của mẹ đích đều làm “vương”, còn con của mẹ thứ đều làm “hầu”, mà không đặt ngôi Hoàng Thái tử. Đến khi nào vua ốm nặng mới chọn một người trong số các con cho vào để nối ngôi. Đây là một ý tưởng tốt vì như thế các con sẽ đua nhau làm việc thiện, nhưng trên thực tế lại nảy ra sự ganh đua, dẫn đến những hành vi mờ ám như sửa di chiếu hoặc dùng vũ lực để tranh cướp ngôi.

Ngay từ triều vua đầu tiên của nhà Lý khi nhà vua vừa nằm xuống, là đã xảy ra sự không hay đó rồi. Đó là việc ba vương Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức khi nghe tin Phật Mã sẽ từ ngoài thành vào, nên cho quân của phủ mình phục sẵn ở hai hướng, chờ Thái tử đến thì đánh úp.

Như có linh tính báo trước qua thần Đồng Cổ, hoặc giả có người mật báo thì không rõ, Lý Phật Mã đã không đi vào con đường có quân mai phục, khi đến điện Càn Nguyên, biết có biến, Phật Mã bèn sai quân lính chốt chặt hết các cửa và bảo các vệ sĩ sẵng sàng đối phó. Nhà vua tương lai bảo với mọi người:

– Ta đối với anh em không có chút gì phụ bạc. Nay tiên đế vừa mất, ba Vương đã làm việc bất nghĩa. Vậy các khanh nghĩ sao?

Nội thị Lý Nhân Nghĩa nói:

– Anh em như chân với tay, lẽ ra phải cùng nhau hợp sức thì bên ngoài mới chống được giặc. Nay ba Vương đã làm phản thì chỉ coi là kẻ thù vậy. Xin điện hạ cho được một trận quyết sống mái.

Lời qua lời lại một hồi nữa nhưng Lý Phật Mã vẫn còn dùng dằng chưa quyết. Ý của Thái tử là muốn các Vương kia tự nhận ra lỗi lầm mà rút quân đi cho êm. Nhưng khi ấy, chẳng những ba vương không rút lui mà lại cho quân đến vây chặt điện Càn Nguyên. Bất đắc dĩ, Phật Mã phải nói:

– Ta chỉ biết làm lễ thành phục đến hầu tiên đế, ngoài ra đều ủy cho các khanh cả.

Lý Nhân Nghĩa cùng các tướng dưới quyền đều quỳ xuống mà nói:

– Chết vì vua gặp nạn là chức phận của bọn thần đây.

Nói rồi bảo vệ sĩ mở cửa và tất cả cùng xông ra đánh quân của ba Vương kia. Một hồi lâu, cả hai bên đều chưa phân thắng bại.

Lê Phụng Hiểu tức giận, xách gươm chạy thẳng tới cửa Quảng Phúc là nơi ba Vương đang đứng chờ. Ngài quát to:

– Các Ngài trên quên ơn tiên đế, dưới trái đạo vua tôi. Vì vậy thần là Lê Phụng Hiểu xin dâng các Ngài lưỡi gươm này.

Nói đoạn, Ngài xông thẳng đến trước ngựa Vũ Đức Vương. Vương này quay ngựa định tránh, nhưng đã bị lưỡi gươm của Ngài chém chết. Hai Vương kia thấy thế kinh hãi vội vàng thúc ngựa chạy bán sống, không dám quay cổ lại nhìn. Lê Phụng Hiểu quay trở về điện Càn Nguyên, cùng các võ sĩ đánh tiếp các đám loạn quân, chém và bắt sống không sót một mống nào.

Dẹp xong vụ bạo loạn, Lê Phụng Hiểu cùng các tướng đến lạy trước linh cữu Lý Thái Tổ báo tin thắng trận, rồi đi rước Lý Phật Mã lên ngôi. Lý Thái tử nói:

– Ta được vẹn toàn tính mạng là nhờ ở các khanh cả. Vũ Vệ tướng quân thật còn hơn cả Uất Trì Kinh Đức nhà Đường.

Lê Phụng Hiểu lạy tạ mà thưa lên:

– Đức của Điện hạ cảm động đến cả trời đất nên được thần linh giúp đỡ, chứ công sức của hạ thần nào có đáng gì.

Ý của Lê Phụng Hiểu là nhắc lại việc Lý Phật Mã được thần núi Đồng Cổ báo mộng nên không đi vào con đường có phục binh của ba Vương kia. Nhà vua tương lai cả mừng, cho rằng mình xứng đáng được ở ngôi Thiên tử vai đã được cả thần lẫn người phù trợ. Sau khi làm lễ đăng quang, Ngài thăng luôn cho Lê Phụng Hiểu lên chức Đô thống Thượng tướng quân, tước hầu.

Năm Thiên cảm thánh vũ thứ nhất (1044), tức là 16 năm sau khi tại chức, Lý Thái Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành. Đô thống thượng tướng Lê Phụng Hiểu được cử chỉ huy đạo quân tiên phong, đã lập được nhiều chiến công hiển hách.

Sau trận đại thắng quân Chiêm, mọi người có công đều được nhà vua ban thưởng, nhưng Lê Phụng Hiểu lại nói:

– Muôn tâu Bệ hạ. Thần không muốn được thưởng tước mà chỉ xin Bệ hạ cho đứng ở núi Băng Sơn ném dao đi xa. Hễ dao rơi xuống chỗ nào trong đất công, thì xin bệ hạ ban cho hạ thần làm đất sản nghiệp tới đó.

Nhà vua cả cười:

– Đất đai của Đại Việt ta nào có thiếu gì? Chỉ sợ tướng quân sơ ý để dao chẳng vượt chân núi là mấy, thì ta mang tiếng lắm.

Lê Phụng Hiểu kính cẩn:

– Xin đội ơn tấm lòng của Bệ hạ. Nếu phải như vậy thì hạ thần cũng thực vui lòng, vì số trời chỉ cho có như thế.

Nhà vua gật đầu tán thưởng. Thực là một sự lạ xưa nay chưa từng có! Ngài hạ lệnh cho quan sở tại tổ chức một ngày hội, có đông đủ dân chúng trong vùng đến để chứng kiến xem Đô thống Thượng tướng quân phóng dao nhận ruộng.

Hôm tổ chức buổi lễ, mọi người nô nức đến xem ông Bơng phóng lao. Cờ quạt rợp trời, tiếng chiêng trống vang lừng. Trên đỉnh Băng Sơn, Lê Phụng Hiểu mình trần như một lực sĩ, tay phải cầm con dao, Ngài chạy lấy đà rồi phóng nhanh ra phía trước mặt. Chỉ nghe vút một cái đã thấy lưỡi dao ở giữa tầng không, lao đi như tên bắn. Đến ngút tầm mắt mọi người mới thấy lưỡi dao chúc xuống và đi chếch đến địa phận làng Đa Mỹ.

Tiếng reo hò vang lên như sấm. Tiếng chiêng, tiếng trống cũng khua lên liên hồi. Đích thân quan sở tại chạy đến chỗ lưỡi dao rơi xuống, rồi cho người chăng dây quy vuông để đo đạc. Thật không thể nào tưởng tượng nổi: hơn một ngàn mẫu đất đã nằm gọn trong vòng quy vuông ấy!

Nhà vua vui lòng ban cho Lê Phụng Hiểu số ruộng đó để thưởng công, hàng năm không phải đóng thuế. Từ đấy trở đi ở châu Ái, hễ ai có công được thưởng ruộng, thì đều gọi là ruộng ném dao cả.

Lê Phụng Hiểu trung thành với nhà vua hết lòng, biết điều gì là nói luôn không giấu. Đi đánh dẹp tới đâu cũng thắng. Ngài thọ ở tuổi bảy mươi bảy. Khi mất, dân chúng trong vùng thương tiếc, có đến mấy nơi lập đền thờ Ngài làm phúc thần, cầu đảo mọi người rất là linh ứng.

Đời Trần, năm Trùng hưng thứ nhất gia phong cho Ngài là Đô thống vương. Năm thứ tư, thêm hai chữ “Khuông quốc“. Năm Hưng Long 21, thêm hai chữ nữa là “Tá thánh“. Đền miếu của Ngài nguy nga, hương khói bốn mùa không lúc nào dứt. Ngày nay, ở các thành phố lớn cũng có đường phố mang tên Ngài.

Bài viết Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/do-thong-thuong-tuong-le-phung-hieu/feed/ 0
Mẫu Thoải https://ngaydacbiet.com/mau-thoai/ https://ngaydacbiet.com/mau-thoai/#respond Fri, 16 Jul 2021 16:57:22 +0000 https://ngaydacbiet.com/mau-thoai/ Ở điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, đều giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ở trang phục, thì ở bên phải là Mẫu Thượng ngàn, ở giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải. Sau đây là truyền thuyết về Mẫu Thoải. Mẫu Thoải […]

Bài viết Mẫu Thoải đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Ở điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, đều giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ở trang phục, thì ở bên phải là Mẫu Thượng ngàn, ở giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải.

Sau đây là truyền thuyết về Mẫu Thoải.

Mẫu Thoải là Mẫu ở miền sông biển. Thoải tức là Thủy, do đọc trệch. Mẫu thường mang trang phục màu trắng.

Có thuyết nói Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng tính với cái nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc Hoàng Thượng đế ban tặng cho sức mạnh và tài năng, nhất là tài sông nước, như ở nam giới.

Mẫu là vợ của vua Thủy Tề, là Hoàng hậu ở dưới Thủy cung.

Vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, ở suối. Sông, suối có ở các nơi nên mẫu cũng có mặt ở các nơi, tại các bến sông lớn …

Ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc, đã thờ Mẫu là Thần Thành hoàng, vì làng này xưa kia chuyên nghề sông nước, nổi tiếng khắp vùng. Sắc thượng phong của Mẫu có đề “Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương”, chính là vì lẽ đó.

Cũng có thuyết nói Mẫu, không phải một, mà là ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu Cơ, hai vị thủy tổ khai sáng của nước Văn Lang.

Vua hùng thứ nhất, là con trai trưởng của Lạc Long Quân, Âu Cơ, bắt đầu lên ngôi trị vì thiên hạ. Còn trước đó Lạc Long Quân, Âu Cơ đã chia hai ngã, “50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi”, như sử sách ghi chép. Trong số những người con theo mẹ, người con trai cả ở lại đất Phong Châu và lên làm vua, gọi là Hùng Vương thứ nhất, ở miền rừng núi và trung du.

Ba người con gái, trong số “50 người con theo Âu Cơ lên núi” ấy, được chọn để cai quản công việc về sông nước: Chế tạo thuyền bè, đan các thứ lưới bắt cá, trông coi các luồng lạch và chế ngự các vị thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm hại đến hạ giới. Đó là công việc hàng ngày của ba Mẫu Thoải này.

[alert-note]50 người con theo Lạc Long Quân đi đâu thì trong sử sách không thấy nói rõ.[/alert-note]

Ba Mẫu còn có phép thần thông biến hóa, xua đuổi và tiễu trừ yêu ma, thủy quái mỗi khi chúng đến sách nhiễu hoặc tàn sát ngư dân.

Ba Mẫu đặt đại bản doanh ở sông Nguyệt Đức, chia nhau mỗi người một phần công việc. Dưới quyền các mẫu còn có các thủy thần và các tướng lĩnh, quân sĩ, sẵn sàng chờ lệnh.

Mẫu thứ nhất có tên hiệu là “Thủy Tinh Đông Đình Ngọc Nữ Công Chúa”.

Mẫu thứ hai có tên hiệu la “Hoàng Ba Đoan khiết Phu nhân”.

Còn Mẫu thứ ba có tên hiệu là “Tam giang Công chúa”.

Trong sử sách của các thời trước, chỉ ghi chép kỹ các sự kiện chống giặc,và chính yếu là tuyên dương công trạng của các vị vua chúa, tướng sĩ. Cả các việc trong cung vua phủ chúa cũng được ghi chép kỹ càng, vì quan niệm đấy là Ngọc phả. Còn về chuyện làm ăn sinh sống của dân chúng, thường chỉ được ghi rất sơ sài. Cả những sự khốn khó, những nỗi tai ương mà dân chúng phải gánh chịu, cũng chỉ ghi rất qua loa, đại khái.

Tuy vậy,những sự khốn khó, những nỗi tai ương ấy, như những trận bão lụt khủng khiếp thì chẳng những dân chúng mà cả vua chúa cũng phải hứng chịu, cho nên sử sách cũng đã ghi chép về các sự kiện loại này. Chính vì thế, đến ngày nay chúng ta còn được biết những sự kiện có liên quan đến mẫu Thoải khi trước.

Khi Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì miền đồng bằng Bắc bộ thường xuyên có nạn lũ lụt. Vị vua khai sáng của nhà Lý đã bắt tay ngay vào công việc trị thủy. Công việc tiến hành phải đến đời vua sau, đời Lý Thái Tông, mới căn bản xong: Các khúc đê được nối vào nhau và có quy môgần như ngày nay. Trong những năm tháng đang tiến hành công việc đắp đê ấy, nạn lụt vẫn thường xảy ra. Chính vì vậy, mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven kinh thành Thăng Long để âm phù, giúp dân đắp đê chống lụt. Đó là các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ … mà đến nay, thần thích vẫn còn ghi lại.

Đến thời Lê, ở niên đại Vĩnh Thọ, nước sông Hồng dâng lên rất cao, tràn cả vào Yên Phụ. Nhà vua phải thân hành làm lễ Nam giao ( Lễ tế cáo trời đất), và các mẫu Thoải cũng lập tức ứng hiệu. Các mẫu đã âm phù giúp dân chống lụt và xua đuổi bè lũ thủy quái.

Đời Lê Thánh Tông, nhà vua thống xuất quân sĩ đi đánh Chiêm thành, khi thuyền đi qua vùng Phú Xuyên, Kim Bảng thì một trận cuồng phong hung dữ nổi lên. Vua lập tức sai dọn đàn tràng để cầu xin các vị thần thánh. Mẫu Thoải hay tin, phái Nguyệt Nga công chúa đến giúp, thế là bão tan. Khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, sai đại thần đến tế lễ và mang sắc phong của nhà vua đến phong tặng Nguyệt Nga công chúa.

Đấy là một vài sự kiện sử sách còn ghi lại và mọi người ở một vài địa phương đã thờ Mẫu Thoải làm Thần Thành hoàng, như ở phần trên đã nói. Còn ở các nơi khác, thì thờ Mẫu ở các điện vì Mẫu đã có mặt để âm phù ở khắp mọi nơi.

Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước. Do vậy, mỗi khi bước xuống đò, qua một khúc sông rộng, mọi người thường lẩm nhẩm cầu khấn, xin Mẫu phù hộ độ trì.

Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa.

Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để gió yên, mưa tạnh.

Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái.

Nhân dân đã tìm thấy ở Mẫu hình ảnh của các bà mẹ hiền lành, đảm đang, suốt đời lo lắng cho con cho cháu.

Bài viết Mẫu Thoải đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/mau-thoai/feed/ 0
Gia Thông Đại Vương Lý Phục Man https://ngaydacbiet.com/gia-thong-dai-vuong-ly-phuc-man/ https://ngaydacbiet.com/gia-thong-dai-vuong-ly-phuc-man/#respond Fri, 16 Jul 2021 16:03:10 +0000 https://ngaydacbiet.com/gia-thong-dai-vuong-ly-phuc-man/ Gia Thông Đại Vương là người làng Cố Sở, sau đổi là An Sở, thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây ngày nay. Đại Vương sống vào khoảng cuối thời nước ta thuộc Lương (540), có công theo giúp Lý Nam Đế, lập được nhiều chiến công hiển hách. Gia Thông Đại Vương khi còn trẻ tuổi […]

Bài viết Gia Thông Đại Vương Lý Phục Man đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Gia Thông Đại Vương là người làng Cố Sở, sau đổi là An Sở, thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây ngày nay. Đại Vương sống vào khoảng cuối thời nước ta thuộc Lương (540), có công theo giúp Lý Nam Đế, lập được nhiều chiến công hiển hách.

Gia Thông Đại Vương khi còn trẻ tuổi còn có sức phi thường, đã từng trị được voi dữ, lại tinh thông võ nghệ và cưỡi ngựa, bắn cung cũng thật giỏi. Tư cách, đức độ của Đại Vương lại thực hơn người, nên đi đến đâu mọi người cũng mến phục.

Khi ấy dân ta sống dưới ách thống trị của ngoại bang, phải chịu trăm bề điêu đứng. Các anh hùng hào kiệt muốn liên kết với nhau để chống lại, lúc đầu thường phải dấu họ tên để khỏi bị bọn giặc giết hại.

Năm 541, Lý Bí đang làm chức giám quân ở Cửu Đức (vị trí huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh bây giờ) đã liên kết với các hào kiệt phất cờ khởi nghĩa. Đại Vương theo giúp Lý Bí ngay từ lúc bấy giờ, và lập được nhiều công lớn.

Sau khi chiếm Cửu Đức, Lý Bí đem quân ra đánh thành Long Biên. Thứ sử Giao Châu lúc bấy giờ là Tiền Tư phải bỏ chạy về Quảng Châu.

Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, rồi dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội và phong tước hiệu cho các quan.

Sau khi nhận tước hiệu, Đại Vương lại cầm quân ra trấn thủ biên giới ở miền Đỗ Động. Đây là nơi xa xôi, hiểm trở, các băng trộm cướp thường nổi lên cướp bóc, làm cho dân tình điêu đứng. Đại vương thi hành chính sách vừa nghiêm khắc vừa khoan hòa, nên chẳng bao lâu miền ấy đã ổn định. Các kẻ hùng trưởng đều phải nín hơi, bọn trộm cướp phải về thuần phục và dân chúng thì yên vui, chăm lo làm ăn sinh sống.

Quân Lâm Ấp (tức Chiêm Thành) vào cướp quân Nhật Nam, tiến vào tận châu Cửu Đức. Lý Nam Đế triệu hồi Đại Vương về Kinh, giao cho cầm binh chống giặc.

Đại Vương dẫn quân đi, đánh tan quân Lam Ấp. Khi tin thắng trận báo về Kinh đô, Lý Nam Đế bảo các quan: “Thật tre già mới biết đao sắc, đất nước có gian nguy mới biết người tài giỏi. Đỗ Động tướng quân thật là bậc hào kiệt, dẫu danh tướng đời xưa cũng không hơn được, nên ta cần phải trọng thưởng để nêu gương”.

Khi Đại Vương về triều, nhà vua cho đổi họ Ngài thành họ Lý, theo họ nhà vua. Tên của Ngài cũng đổi thành Phục Nam, tức là người đã có công khuất phục được các “rợ” ở miền biên giới.

Nhân có nàng công chúa đến tuổi gả chồng, Lý Nam Đế cho làm lễ thành hôn với Lý Phục Nam, và thăng cho Ngài lên chức Thái úy, đứng đầu các quan võ.

Lý Thái Úy đã chẳng phụ lòng mong mỏi của nhà vua. Khi xử đoán các việc, Ngài luôn luôn theo lẽ công bằng, còn bản thân thì thanh liêm, chính trực. Những kẻ lộng quyền phải vào khuôn phép, người có công được ban thưởng, có ai oán trái thì được minh xét tỏ tường. Trong triều ngoại nội vì thế, ai cũng kính phục, gọi Ngài là Phục Man tướng quân.

Dẫu sao thì chính thể của triều đại Lý Nam Đế cũng mới là chính thể độc lập đầu tiên, vì vậy nhiều thứ hãy còn bỡ ngỡ, chưa vào quy cũ. Vì vậy, những vùng ở xa Kinh đô, nhất là ở nơi biên giới, các hào trưởng, tù trưởng thường hay xưng hùng xưng bá, không chịu phục tùng chính quyền trung ương. Bất đắc dĩ, Lý Nam Đế lại phải phái Lý Thái Úy lên giữ đất Đường Lâm, là vùng nổi tiếng cứng đầu, cứng cổ nhất lúc bấy giờ. Kể từ khi Thái úy đến tri nhậm, vùng đất ấy lại được yên ổn.

Cuối mùa hạ năm 545, nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem đại binh đi đánh Giao Châu. Lý Nam Đế đem ba vạn quân ra chống lại, nhưng vì quân số ít hơn, lại trang bị kém nên đã bị thua ở Châu Diên, rồi ở cửa sông Tô Lịch. Nhà vua phải rút về thành Gia Ninh. Quân Lương đuổi theo vây thành.

Sang đầu năm sau, năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Lý Nam Đế chạy vào đất của người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh.

Đầu tháng 8 năm ấy, sau khi củng cố lưc lượng, Lý Nam Đế định tổ chức một cuộc phản công lớn với hai vạn quân và rất nhiều thuyền bè, đang tập trung ở hồ Điểm Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phú).

Thừa lúc đêm tối, nước sông Cái dâng lên cao, đổ tràn vào hồ trong mùa mưa bão, Trần Bá Tiên cho thuyền theo dòng nước vào đánh quân của Lý Nam Đế.

Do bị bất ngờ, quân Lý Nam Đế bị tan vỡ, phải rút sâu vào động Khuất Lạo. Tại đây, Lý Nam Đế lại tiếp tục củng cố lực lượng, rồi giao toàn bộ thủy binh cho Triệu Quang Phục tiến đánh thủy binh của Trần Bá Tiên.

Triệu Quang Phục là một tướng trẻ tài năng và có nhiều mưu lược, đã chỉ huy thủy binh là những người Việt thông thạo sông nước, đánh nhau với Trần Bá Tiên nhiều trận, chưa phân thắng bại. Nhận thấy quân địch đông hơn, Triệu Quang Phục rút về phòng ngự ở đầm Dạ Trạch, rồi sau đó phản công, giết tướng giặc Dương Sằn và xây dựng lại nền độc lập nước nhà.

Còn đây lại nói về Lý Nam Đế và Lý Thái Úy. Sau khi giao thủy binh cho Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế ở lại động Khuất Lạo, với quân sĩ phần lớn là người Di, Lạo. Và Lý Thái Úy, từ khi quân Lương sang xâm lấn, đã mang quân từ Đường Lâm về Kinh để cùng nhà vua chống giặc. Sau mấy trận thất bại, Thái úy cũng về với nhà vua ở động Khuất Lạo và nắm giữ binh quyền phần lớn là người Di, Lạo đó.

Sang năm sau, năm 547, Lý Nam Đế mất, do tuổi cao sức yếu, lại ở miền lam chướng, và cả nỗi lo phiền. Thái úy một mặt lo mai táng cho Lý Nam Đế, mặt khác cũng sai quân sĩ phòng ngự ở những nơi hiểm yếu. Tuy nhiên, sự phản trắc lại xảy ra ở một hướng khác.

Ấy là những người lính Di, Lạo mà từ trước đến bấy giờ, hầu như họ chỉ là thần dân của một giang sơn riêng vậy. Khi Lý Nam Đế có đông đảo quân lính người Việt thì theo họ, còn bây giờ, quân lính người Việt đã rút đi (theo Triệu Quang Phục) và Lý Nam Đế cũng đã mất, thì họ không chịu theo nữa.

Lý Thái Úy tuy hiểu rất rõ tình thế này, nhưng một mặt phải chịu mệnh vua, không thể từ chối mà không ở lại, mặt khác, nếu có lo đối phó lại họ thì cũng không đủ lực lượng, vì số người Việt ở lại còn rất ít. Vì thế, Ngài chẳng có kế sách gì hơn là phải chịu nương theo số phận đưa đẩy, để chờ cơ hội khác.

Vào một đêm, Ngài đã đi ngủ, bỗng thấy xung quanh nhà lửa sáng rực trời, quân Di Lạo lũ lượt kéo đến vây bọc. Ngài cùng các gia tướng đánh phá vòng vây chạy ra. Quân Di Lạo đuổi theo, rồi vốn quen thung thổ, đã chặn hết các lối. Lý Thái Úy cùng gia tướng chiến đấu cho đến lúc sức cùng lực kiệt. Và khi bị thương, biết chạy cũng vô ích, Ngài bèn trở ngược kiếm, đâm thẳng vào ngực mình.

Quân Di Lạo dầu sao thì cũng không phải là giặc nước, như quan quân nhà Lương. Điều đơn giản là họ chỉ muốn sống cuộc sống theo cách quen thuộc của họ, không muốn có người ngoại tộc chen vào. Vì vậy, sau khi khi Lý Thái Úy mất, họ không tìm cách trả thù, tức là họ vẫn để nguyên thi thể của Ngài ở đây mà không vứt bỏ hoặc hủy hoại.

Chính vì vậy, khi nhận được tin này, người nhà đã từ Cổ Sở, ngược đường lặn lội lên, mang linh cữu của Ngài về quê nhà mai táng. Phần mộ của Ngài được đặt ở cạnh bến Ngọc Tần, đó cũng là tên con sông nhỏ đã chảy qua vùng này.

Gần 500 năm sau, khi Lý Thái Tổ từ Hoa Lư dời đô ra Thăng Long, đã dùng thuyền đi quan sát các vùng phụ cận. Đến bến Cổ Sở, thấy phong cảnh núi sông đẹp đẽ, nhà vua lên bờ, rồi đi dạo trong vùng. Đến bữa dùng cơm, trước khi ăn, ngài rót một chén rượu rồi tưới xuống đất mà khấn rằng: “Trẫm xem nơi này non nước kỳ tú, phong vật dồi dào. Vậy, nếu có người thiêng liêng ở cõi âm, hãy trở về nhận chén rượu này Trẫm tặng!”

Đêm ấy, nhà vua sai lập hành tại để nghỉ lại trong vùng. Đang trong giấc ngủ, Ngài mộng thấy một người cao lớn, mặt mũi phương phi, ăn mặc trang nghiêm, đến thi lễ trước mặt mà nói rằng:

– Thưa Bệ hạ. Tôi người làng này, họ Lý, tên Phục Man, làm tướng giúp Lý Nam Đế. Khi đương thời được vua giao giữ hai đất Đỗ Động và Đường Lâm, được mọi nhà tin yêu. Khi tôi chết được đức Thượng đế khen thưởng cho giữ chức vụ như cũ. Từ đó đến nay, tôi thường đem lính âm binh đến phù trợ cho các triều đại của ta chống giặc mau chóng thành công. Tuy khi tôi chết, dân làng đã lập miếu thờ, vì vậy tôi được phảng phất trong khoảng trời mây, lúc có giặc thì hiển ứng chống đánh, nhưng dân làng vẫn sợ bọn giặc vào cướp phá đền. Nay bệ hạ loan giá tới đây, có lòng tưởng nhớ, vậy tôi xin đến bái kiến.

Nói đoạn, Lý Phục Man liền ngâm tiếp bốn câu thơ:

Thiên hạ toàn mông muội

Cô vị ẩn thanh danh

Trung thiên yết nhật nguyệt

Quang diệu thị chân hình.

(Dịch nghĩa:

(Lúc) Thiên hạ toàn mờ tối

Nên phải tạm ẩn tăm, tiếng

(Nay) Giữa trời đã thấy mặt trời, mặt trăng

Ấy là lúc hình hài được sáng tỏ).

Ngâm xong, Lý Phục Man liền biến mất. Lý Thái Tổ tỉnh mộng, hôm sau nói lại câu chuyện và đọc mấy câu thơ cho mấy viên quan đi theo nghe rồi hỏi ý kiến mọi người. Ngự sử đại phu Lương Nhậm Văn nói:

– Muôn tâu Bệ hạ! Hạ thần trộm nghĩ Lý Tướng quân muốn được dựng tượng thờ để dân chúng cũng thấy mặt.

Lý Thái Tổ gật đầu khen phải, rồi xuống chiếu phục lập Phục Man làm phúc thần cai quản một vùng. Lại sai dựng miếu đàng hoàng hơn trước. Trong đền, sai tạc một bức tượng giống như hình dáng nhà vua đã thấy trong mộng.

Đền xây xong, tượng tạc xong, dân chúng trong vùng và các nơi về trảy hội đông như mắc cửi. Từ đấy trở đi, hương khói không lúc nào dứt, và được các đời truyền tụng là một ngôi đền rất mực linh thiêng.

Trong thời Nguyên Phong (1251 – 1257) tức là sau đến gần 250 năm, vào đời Trần Thái Tông, quân Mông Cổ sang xâm lấn. Khi kỵ binh của chúng qua địa phận làng Cổ Sở, ngựa đều phải phục xuống, không thể tiến lên được. Dân làng tin là có thần âm phù, nên cùng nhau cầm vũ khí xông ra đánh, giết, được rất nhiều giặc.

Khi giặc tan, nhà vua xuống chiếu phong thần là “chứng an quốc công” và ban cho làng Cổ Sở là “Chứng an hộ xá”.

Đến năm Trùng hưng thứ nhất (1285) giặc Nguyên Mông lại sang lần thứ hai, đi đến đâu chúng cũng đốt phá tan tành. Ấy mà làng này, sau khi giặc tan vẫn nguyên lành, không một vật gì bị phạm tới. Dường như có bàn tay của thần Lý Phục Man ngăn trở quân giặc vậy. Vua Trần Nhân Tông thấy thế liền tấn phong Ngài lên thêm một bậc là “Chứng An Vương”. Năm thứ tư, gia phong hai chữ “Minh Ứng”. Năm Hưng Long thứ 21, lại gia phong hai chữ “Tả Quốc”.

Bài viết Gia Thông Đại Vương Lý Phục Man đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/gia-thong-dai-vuong-ly-phuc-man/feed/ 0
Hai Bà Trưng https://ngaydacbiet.com/hai-ba-trung/ https://ngaydacbiet.com/hai-ba-trung/#respond Fri, 16 Jul 2021 15:07:23 +0000 https://ngaydacbiet.com/hai-ba-trung/ Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em ruột, con gái vị Lạc tướng ở huyện Mê Linh (nay là vùng Sơn Tây cũ và tỉnh Vĩnh Phú), thuộc dòng dõi Hùng Vương. Hai Bà là những phụ nữ tài cao đức trọng và có đảm lược hơn người. Năm 19 tuổi, bà […]

Bài viết Hai Bà Trưng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em ruột, con gái vị Lạc tướng ở huyện Mê Linh (nay là vùng Sơn Tây cũ và tỉnh Vĩnh Phú), thuộc dòng dõi Hùng Vương.

Hai Bà là những phụ nữ tài cao đức trọng và có đảm lược hơn người. Năm 19 tuổi, bà Trưng Trắc kết duyên cùng ông Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên (nay là Hà Nam và Nam Hà), cũng là một người bất khuất, có ý chí quật cường.

Thuở ấy, dân ta sống dưới ách đô hộ của người Hán (Trung Quốc) vô cùng cực khổ.

Nhà Đông Hán chia nước ta thành quận huyện. Đứng đầu mỗi quận là một viên Thái thú người Hán, còn dưới mỗi huyện phần lớn vẫn để các Lạc tướng người Việt trông coi, theo chính sách “dùng tục cũ mà cai trị”.

Nhưng “dùng tục cũ” cũng chỉ là cái vỏ và chẳng được bao lâu. Bọn cai trị vốn lòng tham không đáy, càng ngày càng vươn dài cánh tay xuống bên dưới bóp hầu bóp cổ dân ta. Nào xuống biển mò ngọc trai, lên rừng săn sừng tê, ngà voi. Rồi tô, thuế. Còn chiếm cả đất lập trang trại. Lại độc chiếm luôn sản xuất và buôn bán muối…

Các Lạc tướng cũng bị đối xử tàn tệ. Hạch sách, vòi vĩnh, cấm đoán, xỉ mắng đủ điều.

Hai gia đình Lạc tướng thông gia với nhau, vốn căm thù sâu sắc bè lũ xâm lược, cùng nhau bàn định rồi chuẩn bị lực lượng, tập hợp dân chúng, rèn đúc vũ khí,… Nhưng sắp đến ngày khởi nghĩa thì công việc bại lộ. Thi Sách bị viên Thái thú Tô Định tàn ác, kẻ mới sang thay Tích Quang, giết chết.

Không hề nao núng, Hai Bà Trưng vẫn tiếp tục sự nghiệp mà Thi Sách đã để lại. Tháng 3 năm 40 (theo dương lịch), Hai Bà phất cờ khởi nghĩa ở Mê Linh.

Trước đó trên mọi miền đất nước, đã có những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Nay nghe tin hai Bà, vốn là dòng Hùng Vương dấy nghiệp, đều nhất tề đứng lên, Mê Linh đã trở thành nơi tụ nghĩa của đồng bào cả nước.

Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến đánh Luy Lâu (thuộc Thuận Thành, Hà Bắc) là thủ phủ của chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ. Thành Luy Lâu bị hạ, Tô Định phải cắt tóc cạo râu, ăn mặc giả làm con gái, tìm đường lẻn trốn về Nam Hải (thuộc Quảng Tây, Trung Hoa).

Từ Luy Lâu, nghĩa quân tiến đánh nhiều phủ huyện khác, phối hợp với lực lượng nổi dậy ở các địa phương. Bọn quan lại ở Đông Hán hoảng sợ, có nơi mới chỉ nghe tin nghĩa quân đang đến, đã phải bỏ lại cả của cải, ấn tín, giấy tờ,… để cốt chạy tháo thân về nước.

“65 huyện thành”, nghĩa là toàn bộ nước ta hồi đó đã sạch bóng quân xâm lược. Bà Trưng Trắc được tất cả các tướng sĩ và quân lính suy tôn lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Bà Trưng Nhị và các tướng lĩnh khác đều được phong tước, chia nhau ra giữ các miền xung yếu. Hai năm liền, mọi người cả nước được miễn tất cả các khoản sưu thuế.

Đất nước độc lập, nhưng tính về so sánh lực lượng giữa ta và địch thì hãy còn quá chênh lệch. Sau khi thống nhất Trung Hoa, tất cả các chư hầu xung quanh đều phải phục tùng nhà Hán, và đế chế Hán lúc bấy giờ ở vào thời kỳ thịnh đạt nhất của nó.

Tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa và xưng vương đã làm chấn động cả vương triều Hán. Hán Quang Vũ Đế vô cùng tức giận, lập tức hạ lệnh bắt các quận miền Nam (Trung Hoa) lo trưng tập binh mã, sắm sửa thuyền bè khí giới, sửa sang đường sá, tích trữ lương thảo,… để chuẩn bị đánh chiếm lại nước ta.

Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán phong Mã Viện làm “phục ba tướng quân” đem hai vạn quân cùng hai nghìn thuyền xe, vừa thủy vừa bộ, từ Hợp phố (Quảng Đông) tiến thẳng vào vùng Lãng Bạc (Tiên Sơn, Hà Bắc). Mã Viện là viên tướng già có nhiều mưu gian kế hiểm, và thuộc vào loại sừng sỏ nhất của nhà Hán thời đó. Một tay y đã từng đánh dẹp người Khương và đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong nước.

Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh xuất phát từ Mê Linh xuống Lãng Bạc chống giặc. Tại đây một cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra. Cuối cùng quân ta yếu thế hơn phải rút lui về Cẩm Khê (Yên Lạc, Vĩnh Phú). Mã Viện đem quân đuổi theo. Tại Cẩm Khê và các vùng lân cận lại diễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt nữa, kéo dài gần một năm sau. Hai bên đều bị hao binh tổn tướng. Nhưng quân giặc do đông hơn, lại có nguồn chi viện thường xuyên, còn quân ta lực lượng ít hơn, lại bị chặn các nẻo đường tiếp tế. Cuối cùng, do lực lượng quá chênh lệch, quân ta đã thất bại.

Khi chạy tới vùng cửa sông Hát, thấy không còn cứu vãn nổi tình thế được nữa, Hai Bà Trưng thà chết chứ nhất định không chịu rơi vào tay giặc, đã cùng nhảy xuống sông tự tử. Đó là ngày mồng 6 tháng 2 Âm lịch, (Dương lịch là tháng 3 năm 43).

Các tướng lĩnh khác như các bà Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Nàn,… ở các mũi chiến đấu khác, khi sức cùng lực kiệt, cũng đều tự vận theo gương Hai Bà.

Cuộc khởi nghĩa chính đã thất bại, nhưng tại nhiều nơi khác, quân ta vẫn còn tiếp tục chiến dấu. Mãi tới tháng 11 năm 43 Mã Viện vẫn còn phải mở đường qua Tạc Khẩu (Yên Mô, Ninh Bình) để vào quận Cửu Chân (Bắc Trung Phần) đàn áp tướng Đô Dương.

Hai Bà Trưng là những hậu duệ trực tiếp của các vua Hùng, còn mẹ của Hai Bà, bà Man Thiện, cũng là cháu chắt bên ngoại của vua Hùng. Bà góa chồng sớm nhưng đã nuôi dạy hai con gái thành những trang anh hùng kiệt xuất, mở đầu cho lịch sử chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc. Khi hai con gái và con rể chuẩn bị khởi nghĩa, bà đã không quản đường xa mệt mỏi, đi lại khắp nơi để hẹn ước với nghĩa quân các địa phương. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng sở dĩ mau chóng thắng lợi là vì các lực lượng trong nước đều nhất tề đứng đậy một lần, làm cho quân giặc trở tay không kịp. Với danh nghĩa là vợ một vị Lạc tướng lẫy lừng, đã đảm đang quán xuyến mọi công việc sau khi chồng chết, nên lời nói của bà được mọi người trong nước tin tưởng và hưởng ứng nhiệt liệt.

Hiện nay ở làng Nam Nguyễn thuộc Huyện Ba Vì (Hà Tây) còn ngôi mộ của Bà mà mọi người trong vùng vẫn gọi là mả Dạ. “Dạ” là tiếng Việt cổ, để chỉ một bà già được kính trọng.

Thiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian cuối thế kỷ thứ 17, đã ghi lại lời Bà Trưng Trắc trên đàn thề trước nghĩa quân ở Mê Linh để chuẩn bị xuất trận như sau:

Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng

Ba kẻo oan ức lòng chồng

Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.

Đó là tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa, là ý chí nguyện vọng của cả dân tộc lúc bấy giờ.

Các tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có rất nhiều, đặc biệt, phần lớn là các tướng nữ.

Theo điều tra chưa đầy đủ hiện nay ở nhiều làng thuộc Bắc Phần và Bắc Trung Phần có thờ thần Thành Hoàng nguyên là các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng ngày trước như:

  • Bà Lê Chân ở Hải Phòng.
  • Bà Bát Nàn ở Thái Bình.
  • Bà Thánh Thiên, Diệu Tiên, Vĩnh Huy, Liễu Giáp, Ả Tắc, Ả Di ở Hà Bắc.
  • Bà Bảo Chân, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ ở Hải Hưng.
  • Vợ chồng Đào Lý, Nàng Tía, Quốc Nương, Khỏa Ba Sơn, Ông Đống, Ông Nà, ở ngoại thành Hà Nội.
  • Chu Thước, Đỗ Năng Tế, Hoàng Đạo, Liên Quang Cai ở Hà Tây.
  • Ba anh em họ Trương ở Quảng Ninh.
  • Năm mẹ con bà Lê Thị Hoan ở Thanh Hóa, v.v …

Nhân dân Tày, Nùng ở Việt Bắc đến nay vẫn còn nhớ nhiều truyền thuyết về tổ tiên xưa của họ đã từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

Từ bao đời nay, Hai Bà Trưng đã trở thành biểu tượng cho lòng yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của toàn dân tộc. Ở Hà Nội, Hà Tây, và nhất là ở Vĩnh Phú, đều có lập đền thờ Hai Bà. Tên của Hai Bà được đặt cho quận, đường phố, và trường học khắp cả nước,…

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Hai Bà Trưng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/hai-ba-trung/feed/ 0
Mai Hắc Đế: Mai Thúc Loan https://ngaydacbiet.com/mai-hac-de-mai-thuc-loan/ https://ngaydacbiet.com/mai-hac-de-mai-thuc-loan/#respond Fri, 16 Jul 2021 13:17:11 +0000 https://ngaydacbiet.com/mai-hac-de-mai-thuc-loan/ Nước ta, trong thời kỳ thuộc Tùy, Đường (603 – 906) sau cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến năm 687, là đến cuộc của Mai Thúc Loan nổ ra năm 722. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn, quân số lên tới hơn ba chục vạn người. Sau thắng lợi, Mai Thúc Loan […]

Bài viết Mai Hắc Đế: Mai Thúc Loan đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Nước ta, trong thời kỳ thuộc Tùy, Đường (603 – 906) sau cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến năm 687, là đến cuộc của Mai Thúc Loan nổ ra năm 722. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn, quân số lên tới hơn ba chục vạn người. Sau thắng lợi, Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế, ở ngôi mười năm rồi mới mất.

Nhà vua quê ở châu Hoan thuộc quận Nhất Nam (nay là miền trung du của Nghệ An), vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân, nhưng là người có tài năng và chí khí lớn. Cha là Mai Sinh, mẹ là Vương Thị, đều là người hiền đức, suốt đời chăm lo chí thú làm ăn và làm nhiều việc nghĩa.

Tương truyền lúc sắp sinh ra nhà vua, bà mẹ nằm mộng thấy một thiếu phụ vận quần áo màu đỏ, đến trao cho một viên ngọc lớn. Bà nhìn xem, thấy đó là viên ngọc bích có năm sắc màu lung linh, hình dáng giống như quả trứng gà nhưng to hơn một chút.

Bà cảm động, giơ tay đón lấy, nhưng chẳng may lỡ hụt, làm viên ngọc rơi xuống đá vỡ tan. Thế là bà tỉnh mộng.

Đến khi sinh, nhận thấy đứa trẻ ở đùi bên trái có vết xanh đen, giống như hình đồng tiền, bà đem chuyện nằm mộng nói lại với chồng. Ông Mai Sinh lấy làm lạ, rồi suy gẫm hồi lâu mà giải mộng như sau:

Ngọc hình quả trứng gà, lại có năm sắc lung linh, đấy là điềm của loài linh điểu mang năm đức tính tốt vận vào. Còn ngọc rơi xuống, có tiếng vang, lại bắn đi khắp nơi, ấy cũng là điềm lành, sau này đứa trẻ nhất định sẽ làm vẻ vang cho gia đình và đất nước, tiếng tăm sẽ vang dậy khắp nơi và lưu lại đến muôn đời.
Chẳng biết ông Mai Sinh có như người ta “với tay một tấc đến trời” hay không, mà chỉ biết niềm tin của ông là sắt đá. Ông mời mọi người đến ăn mừng, rồi tuyên bố đặt con là Phượng, tự là Thúc Loan, lấy ngay các từ trong mộng.

Nhưng thực không may, đến năm Mai Thúc Loan lên mười thì bà mẹ vào rừng kiếm củi bị hổ vồ, ông bố buồn rầu sinh bệnh, chẳng bao lâu sau cũng mất.
Một người bạn của cha là Đinh Thế, gia tư giàu có nhưng lại trọng nghĩa khinh tài, thấy vậy, đem Thúc Loan về nuôi, coi như con đẻ. Ông quả là có con mắt tinh đời, thấy trước mọi việc. Đến khi lớn lên, quả nhiên Mai Thúc Loan có tướng quý và có nhiều tài năng xuất chúng, đúng như lời ông bố đã giải mộng.

Mai Thúc Loan có đầu hổ, mặt rồng, tay vượn, bắp thịt nổi cuồn cuộn, dáng đi hùng dũng hiên ngang và tiếng nói thì sang sảng như sấm. Các môn võ nghệ như côn quyền, giáo mác, cung kiếm, chàng cũng thực cao cường. Lại các cách bày binh, bố trận, chàng cũng đều thông thuộc cả.

Không biết Mai Thúc Loan học những thứ đó từ bao giờ và học với ai, nhưng chỉ biết, bạn bè của chàng rất đông, và trong số họ, đều là những trang nam nhi chí khí, những bậc anh tài trong thiên hạ.

Đó là những người có cùng mục đích cứu nước cứu dân, như sau này sẽ thấy. Và chính Mai Thúc Loan, đã tài năng và đảm lược hơn người, lại tính tình hào hiệp độ lượng, nên đã tập hợp họ lại được.

Ông bố nuôi Đinh Thế biết tất cả những việc mà Mai Thúc Loan đã làm. Chẳng những không ngăn cấm mà ông còn khuyến khích, tạo thêm điều kiện cho chàng làm những công việc đó. Ông hiểu sau này con nuôi ông là người sẽ cần thiết và có ích cho đời. Dân ta đang rên xiết dưới ách thống trị của ngoại bang, phải có những người anh hùng đứng lên để đánh đuổi chúng đi chứ?

Ông Đinh Thế có cô con gái, tuổi cũng xấp xỉ như Mai Thúc Loan, tên gọi Ngọc Tô. Đó là cô gái xinh đẹp, nết na, lại đảm đang tháo vát, được ông rất quý mến. Chẳng hề nề hà con nuôi với con đẻ, ông đem tác hợp cho đôi trẻ khi chúng trưởng thành. Rồi ông chia cho họ nhà cửa, sản vật, ruộng nương cũng thật đầy đủ, chu đáo.

Là cô gái đảm đang, Ngọc Tô lo quán xuyến công việc trong nhà để cho chồng có thời gian tập luyện và đi gặp gỡ bạn bè. Ấy vậy mà, sản vật cứ một ngày một tăng, kẻ ăn người làm trong nhà cũng ngày một đông. Mai Thúc Loan thỏa lòng thù tiếp bạn bè, còn Ngọc Tô cũng luôn tươi cười, không bao giờ có lời phàn nàn nào cả.

Tháng lại ngày qua, gia đình họ sống yên vui đầm ấm, bề ngoài cũng làm ăn sinh sống và sinh con đẻ cái như mọi người, nhưng bên trong, là cả một sự chuẩn bị ráo riết cho ngày khởi sự: Tích trữ lương thực thực phẩm để lo tiếp bạn bè và quân lính sau này. Lúc ấy ông bố nuôi cũng đã mất.

Những người cùng chí hướng, kẻ trước người sau, lục tục tìm về. Phòng Hậu, Thôi Thăng ở Hoa Dương, rồi đến Phục Trường Thủ, Đàn Vân Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sĩ Lâm, Bộ Tân,… đều là bạn bè cũ hoặc bạn bè mới, do mến mộ tài năng Mai Thúc Loan mà tìm đến. Đó là những danh sĩ và những tráng sĩ nổi tiếng đương thời, quê quán chính yếu ở vùng Châu Hoan cả.

Ban ngày những người này ra bãi làm lụng cùng vợ chồng Mai Thúc Loan, nhưng đêm về thì họ tập luyện võ nghệ và bàn tính công việc. Thanh thế của họ lớn dần, thanh niên trai tráng trong vùng tìm đến cũng rất đông. Chỉ trong vòng một tháng quân số đã lên tới mấy nghìn người.

Lúc bấy giờ bên nhà Đường, Võ Tắc Thiên nhiếp chính, đưa anh em dòng họ Võ vào triều đình, khuynh lót dòng họ Lý đang thất thế. Sự lục đục lan ra đến tận các vùng xa xôi. Đất cai trị của nhà Đường khi ấy cũng thực rộng, ở phía Nam, bao gồm cả nước ta lẫn Lâm Ấp và Chân Lạp. Bọn quan lại nhà Đường thả sức vơ vét bóc lột, khiến cho dân ở cả ba miền nước phải điêu đứng trăm bề.

Bạn bè của Mai Thúc Loan đều cho rằng thời cơ khởi nghĩa đã đến, nhưng vốn thận trọng nên Mai Thúc Loan hãy còn cân nhắc đắn đo. Mao Hoành, Tùng Thụ hiến kế:

Thưa huynh trưởng, chúng ta chẳng nên lo lực lượng chưa đủ. Dân ta đã có câu: “Một cây làm chẳng lên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Nay ta nên liên kết với Lâm Ấp và Chân Lạp thì ắt hẳn sẽ đánh đuổi được quan quân nhà Đường.

Mọi người khen phải. Tiết Anh, Hoắc Đan tình nguyện xin đi sứ sang hai nước láng giềng. Nhưng Khổng Qua, Cam Hề, Sĩ Lâm, Bôï Tân cùng đứng dậy nói:

– “Ta chưa nên cử người đi sứ vội bởi vì danh chưa chính. Trước hết ta dựng ngay cờ khởi nghĩa rồi đem quân chiếm châu thành. Sau đó, huynh trưởng sẽ lên ngôi Hoàng đế, thiết lập giang sơn riêng. Lúc ấy, cử người đi sứ ắt sẽ được hai nước kia hưởng ứng.”

Mai Thúc Loan nói:

– “Xin đa tạ tấm thịnh tình của anh em. Lời bàn thật chí lý. Nhưng chúng đã ta thề sống chết có nhau, hà cớ gì phải lên ngôi để trong anh em có sự cách bức?”

Phòng Hậu, Thôi Thặng, Phục Trường Thủ, Đàn Vân Du thấy vậy, cùng nói:

– “Huynh trưởng lâu nay đối xử với anh em thế nào, chúng tôi đều đã rõ. Sau này nếu có lên ngôi thì chẳng qua chỉ là sự bắt buộc để cho chính lệnh được nghiêm mà thôi. Chúng ta cùng nhau làm việc nghĩa đánh đuổi quan quân nhà Đường, ai đáng việc gì thì làm việc ấy, chứ đâu phải để ngồi chia nhau bổng lộc?”

Mai Thúc Loan đặt cả hai tay lên ngực:

– “Anh em đã nói vậy, tôi cũng dám thêm nhiều lời. Chỉ xin anh em chứng dám cho lòng này trước làm sao sau làm vậy mà thôi.”

Ngay ngày hôm sau, Mai Thúc Loan cùng các bạn bè dựng cờ khởi nghĩa. Rồi chiêu binh mãi mã, đắp lũy xây thành. Chỉ trong vòng một tuần được các nơi gần xa hưởng ứng, quân số đã lên tới gần mười vạn.

Sau khi sắp đặt người chỉ huy các quân và đạo, Mai Thúc Loan dẫn đại binh tiến đánh thành Hoan Châu. Quan quân nhà Đường hoảng sợ, không dám chống cự lại, đã bỏ thành mà chạy.

Mai Thúc Loan vào thành, chia quân đóng giữ các ngã. Rồi, trước lời thỉnh cầu của mọi người, Ngài lên ngôi Hoàng đế ở phía nam Hương Lãm. Đó là vào đầu mùa hạ năm Quý Sửu, tức vào niên hiệu Khai nguyên thứ nhất đời Đường Huyền Tông (712). Nhà vua tự cho mình thuộc về đức thủy, tượng trưng bằng màu đen, và xưng là Hắc Đế.

Mai Hắc Đế sắp đặt triều thần vào các chức vụ nhhư sau: Phòng Hậu làm Quân sư, Thôi Thặng làm Thái úy, Phục Trường Thủ làm Tham mưu, Đàn Vân Du làm Tán nghị, Mao Hoành làm Thái trung đại phu, Tùng Thụ làm Thị trung nội sử, Sĩ Lâm làm Hộ quân, Bộ Tần làm Lang tướng, Tiết Anh làm Lâm Ấp thông vấn sứ, Hoắc Đan làm Chân Lạp cáo dụ sứ.

Năm sau, năm Giáp Dần, Tiết Anh, Hoắc Đan phụng chỉ đi sứ sang Lâm Ấp và Chân Lạp. Dân hai nước này bấy lâu cũng bị khổ nhục vì quan quân nhà Đường, đến nay thấy nước ta khởi nghĩa thắng lợi, nên nhiệt liệt hưởng ứng. Vua Lâm Ấp Phạm Hề Dĩnh sai tướng Chư Hương An đem mười vạn quân, vua Chân Lạp Hồ A Khiêm sai tướng Tham Ninh cũng đem mười vạn quân, đến Hương Lãm hội kiến.

Uy danh của triều đình Mai Hắc Đế vì thế mà ngày một càng lừng lẫy. Quan quân nhà Đường hoảng sợ. Viên Thứ sử Hoan Châu cũ là Tào Chân Tĩnh phải lui quân về giữ Quế Sơn.

Mai Hắc Đế tiếp tục cho quân tiến đánh Quế Sơn, rồi Long Biên. Quan quân nhà Đường phải rút chạy về nước. Thành Long Biên về tay quân ta.

Từ đó trở đi, đất nước thái bình, dân chúng yên tâm làm ăn sinh sống, các bộ tộc thiểu số xung quanh cũng đều về thuần phục cả.

Năm Bính Thìn (715), vua Đường đã dẹp xong nội loạn, bèn sai Dương Tử Đức là Tả giám môn vệ và Nguyên Sở Khách làm Đô hộ phủ mang hơn ba mươi vạn quân, chia làm hai hướng đường thủy bộ, cùng tiến vào Long Biên. Một trận chiến đấu ác liệt diễn ra. Cuối cùng, do chênh lệch lực lượng, quân ta thất bại, phải rút chạy về Hương Lãm (Nghệ An).

Quân nhà Đường vào thành Long Biên củng cố lực lượng, rồi mấy năm sau, mang đại binh tiến đánh Hương Lãm, vây bức phủ thành. Mai Hắc Đế cùng tướng sĩ ra sức ngày đêm cố thủ. Nhưng lương thực ngày một cạn dần, quân số cũng hao tổn thêm sau các trận chiến đấu. Cuối cùng, thành bị vỡ, Mai Hắc Đế cùng tướng sĩ tử chiến với quân giặc và hy sinh oanh liệt giữa trâïn tiền.

Tính ra, từ năm nhà vua lên ngôi, Quý Sửu (712), đến khi thất thủ, Nhâm Tuất (722), là vừa tròn 10 năm, và đã để lại cho hậu thế một sự nghiệp thật là hiển hách.

Để tưởng nhớ công đức của Ngài, người đời sau đã xây dựng đền miếu thờ ở ngay chỗ mà trước kia là cung điện của Ngài. Hương khói quanh năm không lúc nào dứt. Mọi người đến để tưởng nhớ và cầu xin vong linh Ngài phù hộ độ trì cho.

Đền thờ Ngài ở xã Nam Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đền đã được xếp hạng công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Các triều đại trước kia mỗi khi chính vị đều có sắc thượng phong: “Anh Vũ thần dũng Hoàng đế”, “Vĩ tích uy liệt Hoàng đế”, ” Minh mẫn thần vũ minh đức Hoàng đế” – Đó là những mỹ hiệu mà các thời Trần trùng hưng đã tặng cho Ngài. Các triều đại về sau cũng đều noi theo gương đó.

Ngày nay, nhiều trường học, đường phố đã mang tên Ngài.

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Mai Hắc Đế: Mai Thúc Loan đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/mai-hac-de-mai-thuc-loan/feed/ 0
Khâu Ni công chúa https://ngaydacbiet.com/khau-ni-cong-chua/ https://ngaydacbiet.com/khau-ni-cong-chua/#respond Fri, 16 Jul 2021 11:55:04 +0000 https://ngaydacbiet.com/khau-ni-cong-chua/ Nàng A là người họ Quách, quê ở vùng ngã ba Bạch Hạc bây giờ. Năm 16 tuổi, bố mẹ nàng đều qua đời do phải vất vả cực nhọc vì sưu cao thuế nặng của người Hán. Làng xóm, đồng ruộng thuở ấy đều tan tác, tiêu điều,… Nàng A bỏ nhà đi tu, […]

Bài viết Khâu Ni công chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Nàng A là người họ Quách, quê ở vùng ngã ba Bạch Hạc bây giờ. Năm 16 tuổi, bố mẹ nàng đều qua đời do phải vất vả cực nhọc vì sưu cao thuế nặng của người Hán. Làng xóm, đồng ruộng thuở ấy đều tan tác, tiêu điều,…

Nàng A bỏ nhà đi tu, trong một ngôi chùa ở trong vùng.

Bên ngoài là người tu hành nhưng bên trong nàng A vẫn rèn đúc tâm trí để một ngày kia có thể đem ra giúp nước. Tập bắn cung múa kiếm, ném lao. Nàng A còn tập cả cách hái thuốc chế thuốc chữa bệnh.

Có con cọp đến trở dạ đẻ ở mé sau chùa. Cọp oằn mình vật vã rất đau đớn nhưng cũng rất là dữ tợn. Mọi người đều sợ hãi không ai tới gần. Nàng A đi tìm lá thuốc rồi giã ra, đem dịt cho cọp, thản nhiên như thường. Cọp đẻ xong như thể biết ơn, tha con đi biệt, từ đấy không bao giờ trở lại quấy nhiễu nữa.

Càng ngày dân chúng càng cảm phục nàng A. Người theo về mỗi ngày một thêm đông, cùng nàng tập luyện. Mọi người gọi nàng là sư cô Khâu Ni.

Bấy giờ Khâu Ni mới rõ chí nguyện của mình. Mọi người nô nức tán đồng, cùng nhau rèn đúc vũ khí, chuẩn bị lương thực,…

Khâu Ni hướng dẫn cho mọi người tập luyện không những các môn võ nghệ mà cả các trậïn pháp, từ đánh bộ đến đánh thủy đều rất thông thạo.

Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh, Khâu Ni đem quân bản bộ về tụ nghĩa. Bà được giao chỉ huy đội quân thủy.

Khi ra trận, trên chiến thuyền của Khâu Ni có mộït chiếc trống lệnh rất lớn. Mỗi khi tiếng trống đổ hồi, thuyền quân ta lao vun vút, quan sĩ gươm giáo tuốt trần nhất tề xông vào thuyền giặc, làm cho chúng kinh hoàng bạc vía phải chạy tan tác,…

Thành Luy Lâu và các huyện thành khác đều bị hạ,… Rồi Hai Bà Trưng xưng vương. Bà Khâu Ni được phong là Khâu Ni công chúa. Bà lại dẫn quân bản bộ về quê làm ăn sinh sống.

Ấp Nhật Chiêu, nay là xã Liên Châu, huyện Lạc Yên, tỉnh Vĩnh Phú, là nơi bà Khâu Ni đóng bản doanh. Tại đây bà cho lập đồn trại và sửa sang lại ngôi chùa trước kia bà đã từng tu luyện, rồi cho treo chiếc trống trận ở đó. Vì thế chùa này đến nay vẫn gọi là chùa trống.

Bà Khâu Ni mất sớm, khi đang tu tại chùa. Nhân dân tôn bà Thần Thành Hoàng, lập đền thờ ở làng Nhật Chiêu.

Khi cúng tế mọi người ở đây kiêng mặc áo vàng, vì đó là y phục trước kia bà đã mặc ra trận.

Trong khi tiến hành hội lễ có tục lệ trâu thui cả con, để tưởng nhớ hội xuất quân của bà Khâu Ni ngày trước. Khi thui trâu chín xong thì dân làng và khách thập phương dùng dao xẻo mỗi người một miếng, rồi ăn tại chỗ.

Lại có cả trò chơi cướp cầu, cướp cờ và bơi trải rất là náo nhiệt. Tại ngã ba Bạch Hạc, các đội thuyền dự thi xếp hàng, khi tiến trống lệnh (lấy từ chùa Trống xuống) giục giã đổ hồi thì các tay chèo thi nhau guồng lấy guồng để, và các con thuyền vun vút lao đi, để tưởng nhớ lại ngày xưa, dưới sự chỉ huy của bà Khâu Ni, các thuyền của ta khi xuất trận cũng lao đi vun vút như vậy.

Bà Khâu Ni vẫn thường hiển linh. Giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, giúp Lê Đại Hành đánh quân Tống. Giúp Trần Thái Tông đánh quân Nguyên. Các sự tích đều có ghi lại và các triều đại trước kia đều có sắc thượng phong.

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Khâu Ni công chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/khau-ni-cong-chua/feed/ 0
Lệ Hải Bà Vương: Triệu Thị Trinh https://ngaydacbiet.com/le-hai-ba-vuong-trieu-thi-trinh/ https://ngaydacbiet.com/le-hai-ba-vuong-trieu-thi-trinh/#respond Fri, 16 Jul 2021 10:32:58 +0000 https://ngaydacbiet.com/le-hai-ba-vuong-trieu-thi-trinh/ Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, sau hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị (năm 40) đến bà Triệu Thị Trinh (năm 248) lại thêm một lần nữa cho thấy phẩm chất tài năng của những người con xuất sắc đã làm vẻ vang cho nòi giống. Đây chỉ mới nói […]

Bài viết Lệ Hải Bà Vương: Triệu Thị Trinh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, sau hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị (năm 40) đến bà Triệu Thị Trinh (năm 248) lại thêm một lần nữa cho thấy phẩm chất tài năng của những người con xuất sắc đã làm vẻ vang cho nòi giống. Đây chỉ mới nói riêng về phái nữ.

Bà là em ông Triệu Quốc Đạt, người đất Trung Sơn thuộc quận Cửu Chân (nay là tỉnh Thanh Hóa), sống ở kỷ thuộc Ngô (Trung Quốc).

Khi còn nhỏ, bà có tên là Ẩu. Tên ấy có thể từ lúc sơ sinh bà đã hứa hẹn một giai nhân sau này, nên cha mẹ đặt thế để trời đất khỏi “bắt” đi chăng? Cũng có thể, do lúc còn nhỏ bà đùa nghịch như con trai, lại bướng bỉnh hay gây gỗ và đã đánh hỏng nhiều đồ vật trong nhà? Nhưng cũng có thể, chỉ đơn giản là cha mẹ thuận miệng mà gọi, chứ chẳng có hàm ý gì.

Cho dù thế nào thì khi lớn lên, bà cũng đã là một trang giai nhân thực thụ. Sắc đẹp của bà không phải là vẻ lộng lẫy yêu kiều và dáng điệu thiết tha yểu điệu của những cung tần mỹ nữ ở nơi cung vua phủ chúa, mà là cái đẹp khỏe mạnh, phóng khoáng của quê hương đồng nội, của đời sống nơi thôn dã.

Trên gương mặt bà, tuy cũng là mắt phượng mày châu, nhưng sống mũi, khóe miệng lại toát lên vẻ cương nghị, quả cảm. Còn thân hình bà thì cao lớn, nở nang với đôi chân và đôi tay dài. Các sách vở thời trước ghi bà có vú dài ba thước chắc là đã nhấn mạnh đến vẻ đẹp nữ tính theo quan niệm của đương thời. Toàn bộ con người bà chứa đựng một nguồn sinh lực thật dồi dào và một phong thái hiên ngang đầy uy lực.

Là con một vị hào trưởng tiếng tăm lừng lẫy trong vùng, nên từ nhỏ bà được luyện tập các môn võ nghệ. Càng lớn lên, thiên hướng “con nhà võ” ở bà lại càng lộ rõ. Bà rất tinh thông các cách bài binh bố trận và tài sử dụng cung kiếm cũng thực hơn người. Tính tình của bà thì cũng vẫn như xưa: ngang tàng và đầy khí phách, làm cho ngay cả đám mày râu cũng phải kính nể.

Người anh Triệu Quốc Đạt của bà cũng là một người có tài xuất chúng, lại có đức độ và chí khí hơn người. Ông giao du rất rộng. Bạn bè và người tâm phúc vì thế mà cũng rất đông. Bốn người bạn là Vương Thiện. Lãnh Long, Bao Thúc, và Tốn Thận, đều là những bậc kỳ tài và có đảm lược.

Khi hai anh em lớn lên thì cha mẹ già yếu rồi nối nhau, lần lượt qua đời. Người anh lấy vợ, nhưng phải cái chị dâu tính tình cũng không tốt, vừa tầm thường nhỏ nhen lại hay đanh đá cá cầy. Tính tình ấy ở cùng nhà với Triệu Thị Trinh thì khác nào như nước với lửa. Một hôm, hai chị em xô xát, người chị dâu cậy thế, vừa chửi bới vừa xông vào đánh trước, khiến bà tức giận buộc phải ra đòn. Nào ngờ miếng đòn của bà trúng ngay chỗ hiểm, làm người chị dâu lăn quay ra chết. May mà lúc ấy không có ai chứng kiến.

Khi người anh đi thăm bạn bè trở về nhà, thấy sự thể như thế, lúc đầu cũng vô cùng tức giận. Bà cứ thực sự nói lại, nên về sau người anh cũng thấy nguôi ngoai. Vả lại, có làm to chuyện này ra thì cũng mang lại những điều bất lợi. Vừa mang tiếng với làng nước, bạn bè, vừa làm miếng mồi để quan trên thừa dịp đục khoét. Thời bấy giờ, dân chúng đang rên xiết dưới ách ngoại bang, đi thưa kiện chỉ là tự chuốc thêm lấy tai vạ.

Hai anh em tìm cách thu xếp việc này cho êm thấm, tuy vậy trong thâm tâm người anh vẫn có sự bực bội. Họ chia của nả, rồi người em làm nhà đi ở nơi khác. Mặc dù không ở cùng nhà, nhưng về sau, anh em vẫn thường qua lại thăm hỏi nhau. Đến năm hai mươi tuổi, người em vẫn chưa lấy chồng.

Và như đã nói, cả hai anh em đều là những người phóng khoáng, thích giao du rộng. Cũng như người anh, tân khách trong nhà người em có khi đông tới hàng nghìn, mà đều là những kẻ sĩ tráng kiện nhất thời. Có lần người anh khuyên nhủ người em là đàn bà con gái không nên giao du nhiều và hào phóng đến như vậy, nhưng đã nhận được câu trả lời:

– Người ta sống trong cõi trần thế, từ lúc thanh xuân đến khi tuổi già, ngoảnh đi ngoảnh lại cũng chỉ là phút chốc so với đất trời, vậy chẳng lẽ không làm điều gì để chứng tỏ rằng mình sống cho đáng sống hay sao?

Người anh lấy làm ngạc nhiên:

– Em nói thế, chưa hiểu rõ ý là thế nào?

Người em đáp:

– Em chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình lớn ở ngoài biển Đông, quét sạch ngoại bang, cứu dân ra khỏi cảnh lầm than, chứ chẳng muốn khom lưng cúi đầu làm tỳ thiếp cho người ta đâu.

Người anh cả cười:

– Khá lắm!

Thế là từ đấy hai anh em ra sức tập hợp, tổ chức lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa.

Hồi ấy, vào khoảng năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh An đời Ngô (248) nỗi khổ nhục của dân ta dưới ách cai trị của quan lại phương Bắc đã đến mức cùng cực. Sưu cao, thuế nặng lại thêm phu phen, tạp dịch nhiều bề, khiến cho dân chúng không biết trông cậy vào đâu mà sống. Người các thôn ấp phải đi phiêu bạt các nơi. Mỗi khi có ai mới đến trang trại của mình, đều được hai anh em Triệu Quốc Đạt, Triệu Thị Trinh tiếp đãi ân cần, chu đáo. Vì vậy, tiếng lành đồn xa, chỉ trong vòng mấy tháng, hai anh em đã tập hợp được một lực lượng rất lớn, đến mấy nghìn người. Tình hình trong nước lúc bấy giờ cũng bắt đầu có rối loạn.

Thời cơ khởi nghĩa đã đến! Cả bốn người bạn đều xúm vào khuyên, nhưng Triệu Quốc Đạt vẫn còn phân vân do dự:

– Quân Ngô còn rất mạnh, lại luôn luôn thao diễn, nhuệ khí tăng nhiều. Quân ta mới tập hợp lại, chưa tập luyện mấy, nhưng chưa thể đánh ngay được. Chi bằng ta hãy đợi thêm, đến lúc chỉ cần đánh một trận mà thành thì hơn.

Triệu Thị Trinh đứng dậy nói:

– Anh chớ nên lo quân ta chưa mạnh. Bây giờ chính là lúc ta nên dựng cờ khởi nghĩa. Các nơi nghe tiếng ắt sẽ kéo thêm về, lo gì không đủ sức chống nhau với giặc? Lúc đầu ta hãy đánh vào những chỗ mà giặc sơ hở, không phòng bị, về sau ta sẽ đánh lớn hơn.

Thấy lời bàn hợp lý, Triệu Quốc Đạt đã hết băn khoăn. Sau, quả nhiên đúng như lời Triệu Thị Trinh nói, chỉ trong vòng một tuần (10 ngày) mà quân số đã lên đến hàng vạn. Triệu Thị Trinh lĩnh ấn tiên phong đi đánh một trận mở đầu hoàn toàn thắng lợi.

Không ngờ, giữa lúc quân ta khí thế đang lên, lực lượng đang mạnh, thì Triệu Quốc Đạt bị cảm mạo, rồi đột ngột qua đời. Mọi người, từ quân lính đến tướng sĩ, đều thấy Triệu Thị Trinh là người có tài đảm lược, lại tinh thông các môn võ nghệ, nên đã tôn ngay lên làm chủ tướng, thay Triệu Quốc Đạt. Ngày làm lễ an táng Triệu Quốc Đạt cũng là ngày Triệu Thị Trinh làm lễ đăng quang. Trước đông đủ tướng sĩ và quân lính, bà dõng dạc tuyên bố:

– Các ông thấy anh ta mất đã không hiềm ta là gái mà lập nên làm chủ tướng. Vậy ta cũng gắng sức để đáp lại lòng tin của mọi người. Bây giờ ta có mệnh lệnh trọng yếu, ai nghe theo thì được trọng thưởng, ai trái lệnh sẽ bị nghiêm trị!

Sau lời mở đầu có tính chất nghiêm huấn ấy, bà lại tiếp tục ứng khẩu nói to những điều luật lệ và quy định ở trong quân ngũ, về hành binh cũng như về hạ trại, về chiến đấu cũng như lúc nghỉ ngơi, về quan hệ giữa tướng sĩ và giữa binh lính, giữa binh lính với thường dân,…

Lời bà vang lên sang sảng. Ba quân hàng ngũ chỉnh tề, lặng im phăng phắc. Mọi người đều nghe rõ từng lời, từng mệnh lệnh mà bà phát ra. Ai cũng thầm cảm phục và ghi nhớ kỹ trong lòng.

Từ đó, quân ta thế mạnh như chẻ tre, đánh tới đâu quân giặc tan tành tới đó. Nhiều thành trì bị hạ. Quân giặc phải co cụm lại ở những nơi trọng yếu nhất. Mỗi khi xuất trận, bà thường cưỡi trên mình voi, nai nịt gọn gàng, tay cầm kiếm sắc. Bà thật uy nghi, lẫm liệt, khiến cho quân Ngô, chỉ vừa trông thấy, đã bạt vía kinh hồn, không còn dám chống cự. Thời ấy có câu nói còn lưu truyền, rằng:

– Ngang con mắt nhìn cọp thì dễ, e rằng hướng lên mà nhìn bà Vương, thì thực là khó.

Lại có cả bài hát trong quân lính và dân chúng như sau:

Bà nữ tướng xinh đẹp
Tiếng tăm chấn động phong trần
Làm bạt vía quân Ngô
Sắc đẹp lại xúc động lòng người.

Quả thực, tài năng và sắc đẹp của bà đã làm mọi người vừa mến yêu vừa cảm phục. Dân chúng thì hết lòng chăm lo tiếp tế lương thực thực phẩm, còn quân sĩ thì hết lòng xong pha chiến đấu nơi giữa trận tiền.

Bảy tháng sau, tin ở phương Nam có bà nữ tướng tài giỏi làm cho quân Ngô đại bại, đã bay về tận Kinh đô phương Bắc. Vua Ngô vô cùng tức giận, sai Đốc quân đô úy Hành Dương là Lục Dận sang làm Thứ sử Giao châu, kiêm chức Hiệu úy. Dận dẫn quân tiếp viện ùn ùn kéo sang.

Cho rằng một người đàn bà thì có nghĩa lý gì mà quân Ngô phải sợ, nên Lục Dận biếm truất tất cả các quan thứ mục cũ, rồi tự mình chỉnh đốn quân đội, định ngày cất đại binh. Nào ngờ, ngay trận đầu giao chiến, quân Ngô đã thất bại. Trong một ngày, ba lần xung kích thì cả ba lần quân Ngô đều phải rút lui.

Thế rồi ròng rã năm sáu tháng sau, hai bên đối trận, giáp chiến có đến hơn bảy chục lần, mà cũng không phân thắng bại. Cuối cùng quân Ngô túng thế, phải rút quân vào trong thành, không dám giao chiến. Quân ta cũng đều nhiều phen công phá, nhưng vì thành cao hào sâu, quân giặc lại hết sức cố thủ, nên cũng chưa hạ được thành.

Thì ra Lục Dận cũng chẳng hơn gì kẻ tiền nhiệm của y. Lo sợ bị vua Ngô bắt tội nên Dận suy nghĩ ngày đêm. Cuối cùng, y đã tìm ra được một kế. Ấy là kế cho một vài tên lính nhanh nhẹn, thừa dịp đêm tối, lẻn ra ngoài thành để dò la tin tức của đối phương. Mấy ngày sau, lính do thám về báo cho Dận biết: Bà Vương tuy có tài chỉ huy, có sức địch lại muôn người nhưng lại không chịu sự tinh khiết, rất sợ những vạt dơ bẩn và những thân hình trần truồng. Mỗi khi nhìn thấy thì bà bịt mũi che mặt, nên không thể chiến đấu được,…

Dận xiết bao mừng rỡ, nở mặt nở mày, bèn xuống lệnh cho quân lính, tướng sĩ chuẩn bị. Mà cách chuẩn bị cũng thực bỉ tiện, xưa nay chưa từng thấy bao giờ. Mỗi một tướng sĩ và quân lính, sẽ một tay cầm vũ khí, còn tay kia thì cầm đoạn ống tre trong đựng phân và nước tiểu quần áo, mũ mãng, tất cả đều lột lại, để ở nhà.

Đúng ngày đối trận, Lục Dận sai mở cửa thành, rồi cứ tồng ngồng như thế, với một tay cầm ống đựng phân và nước tiểu, quân Ngô ồ ạt xông ra. Quân ta đều trố mắt ngạc nhiên, nhưng vẫn chuẩn bị xông vào giáp chiến. Chợt mọi người thấy phía quân Ngô, tất cả vừa gào thét, vừa vung lên những ống tre dài. Lập tức một mùi hôi thối nồng nặc xông lên, làm cho phía trận quân ta bối rối, vì ai nấy cũng lấy tay bịt mũi. Mọi người nhìn lên vị chủ tướng, chợt thấy bà cũng lấy tay bịt mũi như mọi người, và quay mặt đi hướng khác.

Nhanh như chớp, quân Ngô vừa vung những đoạn ống tre, vừa múa vũ khí xông vào quân ta. Bà Vương cho quay đầu voi chạy về, không giáp chiến nữa. Quân sĩ cũng chạy theo bà, hàng ngũ tán loạn. Quân Ngô thừa thắng, tràn lên như nước vỡ bờ. Quân ta, số bị chết nhiều vô kể, số còn lại cũng tan tác như ngựa lạc bầy. Bà Vương chạy được một hồi thì thấy phía trước đường tắc, phía sau quân Ngô đang ùn ùn lên bao vây. Thanh gươm vẫn đang cầm trên tay, bà trở mũi, rồi lấy sức đâm thẳng vào ngực mình.

Năm ấy, bà Vương vừa tròn hai mươi ba tuổi. Tính từ lúc khởi sự đến nay, vừa đủ ba năm. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Đất nươc ta lại bị nhà Ngô cai trị.

Sau trận thắng ấy, quân Ngô bị ốm liểng xiểng, cứ như có một nạn dịch lớn đã xảy ra vậy. Chắc là do chúng bị ngửi quá nhiều mùi phân và nước tiểu của chúng trong lúc giao trận? Lại nữa, hàng vạn tên tồng ngồng như thế, hễ bắt được đàn bà con gái, bất kẻ là lính hay dân thường, chúng cũng đều thay nhau hãm hiếp, thì thử hỏi, trong tình trạng mệt nhọc và bẩn thỉu như vậy, làm sao chúng tránh khỏi bệnh tật được?

Ấy thế mà tên Lục Dận gian hiểm, một mặt vừa cho thuốc chữa, mặt khác sai thợ đẽo đến mấy trăm cái ngọc hành, treo la liệt ở khắp nơi, để trừ yểm! Dận phao tin lên rằng, đêm y nằm mộng thấy bà Vương hiện về chửi mắng, nên phải làm như vậy để đối phó. Thật là lố bịch và bỉ ổi hết chỗ nói, chưa từng thấy ở khắp cổ kim đông tây!

Bà Vương mất đi nhưng tiếng thơm còn để lại mãi đến muôn đời. Các thế hệ người Việt đều kính phục và hết lòng tiếc thương một đời tài sắc và khí phách hiên ngang, lẫy lừng của Bà. Đền thờ Bà mọc lên ở khắp nơi. Các triều đại phong kiến trước đây đều có sắc thượng phong với những mỹ tự cao quý nhất: Anh Liệt, Hùng Tài, Vĩ Tích, Anh Mẫn, Trinh Nhất. Đến thời hiện tại, nhiều trường học, đường phố,… cũng đã mang tên Bà.

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Lệ Hải Bà Vương: Triệu Thị Trinh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/le-hai-ba-vuong-trieu-thi-trinh/feed/ 0
Lý Ông Trọng https://ngaydacbiet.com/ly-ong-trong/ https://ngaydacbiet.com/ly-ong-trong/#respond Fri, 16 Jul 2021 09:21:25 +0000 https://ngaydacbiet.com/ly-ong-trong/ Lý Ông Trọng là người Việt đầu tiên hiển đạt tại nước ngoài (Trung Hoa), được vua nước ấy nể trọng. Ông người xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội ngày nay. Lúc nhỏ có tên là Lý Thân. Tương truyền lúc còn sơ sinh ông đã rất to lớn, hơn hẳn […]

Bài viết Lý Ông Trọng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Lý Ông Trọng là người Việt đầu tiên hiển đạt tại nước ngoài (Trung Hoa), được vua nước ấy nể trọng.

Ông người xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội ngày nay. Lúc nhỏ có tên là Lý Thân.

Tương truyền lúc còn sơ sinh ông đã rất to lớn, hơn hẳn các trẻ em bình thường. Rồi đến tuổi trưởng thành, cao tới 2 trượng 3 thước, lại có sức khỏe bình thường. Ông hay giúp đỡ mọi người, nên được nhiều kính nể. Đặc biệt khi ông giết chết con giải hay ăn thịt người ở khúc sông Cái chảy qua làng, thì lại càng được mọi người hết lòng kính nể.

Sự hào hiệp là anh em sinh đôi của tính tình khảng khái. Cho nên, khi gặp cảnh ngang trái ông thường ra tay lập tức. Những người bề trên và các vị gia trưởng, bảo ông kiêu hãn, nghĩa là vừa kiêu ngạo vừa hung hãn. Họ chỉ thấy ở ông một kẻ bề dưới bất trị, mà không xét đến động cơ nào đã khiến ông có những hành động như thế.

Khi ấy là vào cuối thời vua Hùng Vương thứ 18, sắp sửa bước sang thời Thục Phán An Dương Vương. Ở bên Tàu là cuối thời Đông Chu liệt quốc, Tần Thủy Hoàng vừa thôn tính xong 6 nước, rồi xưng là Hoàng đế (221 trước Công nguyên). Lý Thân lúc ấy còn trẻ, vào làm nha môn cho một vị Lạc tướng, do một lần ra tay cứu giúp người bị nạn, đã chẳng may đánh chết hung thủ là người có bà con thân thích với quan trên. Vị Lạc tướng bắt Lý Thân khép vào tội chết (sát nhân giả tử), nhưng vua Hùng biết chuyện, tiếc một người trẻ tuổi có nghĩa khí, nên tha cho, chỉ còn bắt đánh đòn.

Sau trận đòn nhục nhã, lý Thân càng thấm thía thêm thân phận của kẻ tôi đòi: “Người ta ở đời có tráng chí, hãy nên như chim loan, chim phượng bay cao chín tầng trời, bay xa ngàn vạn dặm, chứ có lẽ nào chịu quanh quẩn mãi ở đây, để cho người ta hành hạ?”

Từ đấy, ông bỏ nha môn, đi tìm các thầy giỏi để học. Vừa học chữ, vừa học võ nghệ. Học thầy trong nước, rồi học cả thầy ở ngoài nước (Trung Hoa). Ông chẳng quản ngại đường sá xa xôi, hễ biết ở đâu có thầy giỏi là lập tức tìm đến theo học.

Rồi đến ông thành tài, chẳng những có võ nghệ cao cường mà còn làu thông cả kinh sử. Lúc ấy ông đang ở bên Tàu.

Thời ấy, ở Trung Hoa tuy học hành rất phát triển, nhưng chứa đặt ra chế độ thi cử để chọn nhân tài. Nhân tài được tuyển chọn theo cách: Các quan lại địa phương tiến cử lên nhà vua những người tài năng danh tiếng trong địa hạt của mình, để nhà vua chọn lựa tuyển dụng.

Lý Thân được tiến cử đến Tần Thủy Hoàng, lúc ấy là vị hoàng đế lẫy lừng, người đầu tiên thống nhất Trung Hoa.

Biết tài của ông, Tần Thủy Hoàng trọng dụng rồi về sau cho thăng đến chức Tư lệ hiệu úy, một quan chức lớn trong quân ngũ.

Lúc bấy giờ, tuy nhà Tần thôn tính xong các nước, nhưng ở biên giới phía Bắc, vẫn bị người Hung Nô thường xuyên vào cướp. Hung Nô tuy quân ít nhưng kỵ binh của họ rất thiện chiến, khiến cho quân Tần phải nhiều phen khốn đốn, chống đỡ liên miên.

Tần Thủy Hoàng bèn phái Lý Thân đến trấn giữ đất Lâm Thao (thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay) để đối phó với Hung Nô. Lý Thân một mặt cho canh phòng nghiêm ngặt, mặt khác lại tổ chức nhiều đợt phản công, đánh bao vây tiêu diệt lớn, khiến cho người Hung Nô sau mấy lần thất bại, đành phải từ bỏ ý đồ xâm lấn. Về sau, hễ họ trông thấy Lý Thân ở đâu, là lập tức quay ngựa chạy, không còn dám chống cự nữa.

Cả một vùng biên giới được bình yên, khiến cho vua Tần vui mừng như cất xong gánh nặng. Tần Thủy Hoàng rất quý trọng ông, phong cho là Phụ Tín hầu rồi gả công chúa cho ông. Đối với một người ngoại tộc, vừa được phong chức lớn, lại vừa được nhận là giai tế như vậy, quả là rất hiếm hoi.

Tuy nhiên, mặc dù được trọng thị và tin dùng, Lý Thân vẫn cảm thấy lạc lõng, bơ vơ ở nơi đất khách quê người. Ông gửi lòng mình theo những áng mây trôi mãi về phương Nam, ở đó là quê hương, có cha mẹ, anh em và đồng bào của ông đang sinh sống. Mặc dù ngày trẻ, do phẫn chí mà ra đi, nhưng đến nay, khi tuổi tác càng cao, ông lại càng thấm thía nỗi đau của người xa xứ.

Nhưng đang mắc việc quân trọng đại, làm sao ông có thể trở về quê hương được? Ông rất biết Tần Thủy Hoàng, dù trọng thị và tín dùng như thế nào thì vẫn chém đầu ngay, nếu ông tự tiện rời bỏ nhiệm sở. Thế là ông đành phải chờ đến lúc mình tuổi cao sức yếu vậy.

Ông dâng sớ cáo lão lên Tần Thủy Hoàng khi thấy mình không còn đảm đương nổi việc quân, và cũng xin nhà vua cho trở lại quê hương để được nhìn mặt mọi người thân lần cuối. Tần Thủy Hoàng cho lời tâu ấy là thực, bèn chuẩn y. Thế là không quản hàng vạn dặm đường sá xa xôi, ông lui gót về quê, nơi trước kia ông đã sinh ra. Được vài năm thì ông mất, hoàn toàn mãn nguyện.

Hàng ngàn năm sau, lúc ấy nước ta đang ở gần cuối kỳ thuộc Đường (603 – 906) Triệu Xương (801) rồi Cao Biền (864) lần lượt sang nước ta cai trị. Hai tên cáo già này muốn thu phục lòng người nước Nam, bằng việc xây miếu thờ Lý Thân ở làng Trèm (Từ Liêm, Hà Nội) rồi sau đó cho tạc tượng và tu bổ đền miếu quy mô to lớn. Xương và Biền lại phao tin rằng, đã từng nằm mộng thấy cùng đàm đạo với Lý Thân, hoặc được Lý Thân hiển linh giúp đỡ đánh thắng quan Nam Chiếu.

Mặc dù có những việc làm và lời lẽ mỵ của quân xâm lược đối với Lý Thân, nhưng tình cảm của mọi người đối với ông cũng chẳng vì thế mà suy suyển. Ông xứng đáng vẫn được tôn trọng bởi tài năng, lòng khảng khái và chí tiến thủ của mình. Những gì ông đạt được thực không dễ dàng vào thời buổi ấy. Vậy mà, đến lúc cuối đời ông lại từ bỏ tất cả để được trở về quê hương, mà đường đất đi lại đâu có gần gũi gì. Ông căm giận những người đã xử nhục mình mà bỏ nước ra đi, nhưng chưa bao giờ ông phản lại mọi người và đất nước cả.

Việc từ trước đến nay mọi người đến đền Trèm dự hội và làm lễ tưởng niệm ông, vì thế, là hoàn toàn chính đáng, chứ không phải bị kích động bởi việc làm và lời lẽ của Triệu Xương hay của Cao Biền.

Các triều đại phong kiến trước đây đều có sắc phong tặng ông. Trời Trần trùng hưng đặt các mỹ hiệu “Anh Liệt”, “Dũng Mảnh”. Phụ tín để gọi ông …

Lại nói đến thời nhà Tân (Trung Hoa). Sau khi thấy Lý Thân già yếu, Tần Thủy Hoàng chuẩn y cho ông về cáo lão. Lại ban cho ông xe ngựa và tặng vật để vượt hàng vạn dặm đường dài, trở về cố quốc.

Để vẫn tiếp tục giữ cho quân Hung Nô khỏi vào xâm lấn, Tần Thủy Hoàng sai lấy đồng đúc tượng ông thật lớn, đặt trước cửa Tư Mã ở Hàng Dương, Kinh đô của nhà Tần. Lúc bấy giờ, bụng tượng khoét rỗng, chứa được hàng trục người. Vua Tần sai mấy người lính thay nhau vào đấy, thỉnh thoảng lại làm cho tượng cử động chân tay, đầu óc, hoặc đi lại được. Quân Hung Nô ở xa trong thấy, tưởng là Lý Hiệu Úy còn sống, nên không dám đến xâm phạm.

Thay vì gọi tên bức tượng là Lý Thân, Tần Thủy Hoàng cho gọi đó là Lý Ông Trọng. Xem thế đủ biết, Tần Thủy Hoàng đã nể trọng ông đến mức nào.

Bài viết Lý Ông Trọng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/ly-ong-trong/feed/ 0
Mẫu Thượng Ngàn https://ngaydacbiet.com/mau-thuong-ngan/ https://ngaydacbiet.com/mau-thuong-ngan/#respond Fri, 16 Jul 2021 08:11:21 +0000 https://ngaydacbiet.com/mau-thuong-ngan/ Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫu. Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch xây thẳng ba gian, nhỏ […]

Bài viết Mẫu Thượng Ngàn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫu.

Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùa. Đôi khi cũng xây chùa theo kiểu chữ đinh.

Tại gian chính giữa, là nơi đặt tượng Mẫu.

Trường hợp đặt một tượng Mẫu thì đó là Thánh Mẫu, được hiểu là Mẫu của tất cả.

Trường hợp đặt ba tượng Mẫu thì đó là Mẫu Thượng Ngàn (ở bên phải), Mẫu Liễu (ở chính giữa) và mẫu Thoải (ở bên trái).

Ba pho tượng này đều tạc hình một phụ nữ, đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp. Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.
Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫu. Đó là Mẫu Thượng Ngàn. Mẫu Thượng Ngàn được mang trang phục màu xanh. Cũng có người gọi Mẫu là Bà Chúa Thượng Ngàn.

Mẫu là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mị Nương (trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng cầu hôn Mị Nương, con gái vua Hùng).

Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình.

La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, Ngài đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước,… Rồi dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh,…

Ngài cũng thường dùng các vị Sơn thần, Tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc,…

Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Thánh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha ủy nhiệm đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc.

Các Sơn thần, Tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh chủ tướng. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọ người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc …

Khi Tản Viên và Mị Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế, về trời, trở thành hai vị thánh bất tử, thì Ngài cũng phong La Bình là Công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam ta,…

Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, Thượng Ngàn công chúa vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Ngài bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau. Dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét,…

Ngài dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha Ngài đã dạy, Ngài đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các Tù trưởng, Ngài cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là Ngài lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.

Ngài cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha Ngài chỉ mới bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết trạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn,chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới.

Rồi công việc đồng áng, Ngài dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm.

Trong các con vật nuôi trong nhà, Ngài đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về,…

Công lao của Ngài đối với dân chúng thực không kể sao cho hết. Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho Ngài thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ.

Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của Công chúa Thượng Ngàn.

Cùng với nhiều vị thần thánh khác, Công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Và thật là tự nhiên, khi mọi người đều gọi Ngài là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.

Lịch sử nước Việt từ các thời về trước, đã từng ghi lại các chiến công âm phù lừng lẫy của Ngài.

Tướng sĩ của nhà Lý đánh quân Tống, tướng sĩ nhà Trần đánh quân Nguyên, đều có Ngài âm phù. Các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho Ngài.

Lại đến đầu hồi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì giặc Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, Công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của Ngài, chỉ quân sĩ của ta biết được, còn quân giặc thì không thể nào nhìn thấy.
Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của Công chúa Thượng Ngàn, quân ta vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân ta tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó, với những trận thắng oanh liệt, ở Tốt Động, ở Chi Lăng, và cuối cùng, bao vây bức hàng quân giặc ở Đông Quan, đã giải phóng hoàn toàn đất nước.

Sau chiến thắng vẻ vang, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi, viết bản Bình Ngô đại cáo, tổng kết lại cuộc chiến tranh. Trong bản Bình Ngô có câu: “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần”, là nhắc lại thời nghĩa quân ở núi Chí Linh, tuy gian lao vất vả nhưng vẫn bảo toàn được lực lượng, vì đã được sự âm phù, che chở của Công chúa Thượng Ngàn.

Công chúa Thượng Ngàn, cũng như bao nhiêu vị thần thánh được mọi người tôn thờ, chính là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên.

Ngài có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của dân chúng, khi từ miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng.Vì vậy, ở nơi nào dân chúng cũng lập điện thờ, thờ phụng Ngài.

Tuy nhiên, đại bản doanh của Ngài vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn bình yên, mọi sự tai qua nạn khỏi, thường cầu xin sự che chở, phù trợ của Ngài. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin để được Ngài chấp thuận.

Bài viết Mẫu Thượng Ngàn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/mau-thuong-ngan/feed/ 0
Sự tích xây thành Cổ Loa và lai lịch nỏ thần https://ngaydacbiet.com/su-tich-xay-thanh-co-loa-va-lai-lich-no-than/ https://ngaydacbiet.com/su-tich-xay-thanh-co-loa-va-lai-lich-no-than/#respond Fri, 16 Jul 2021 05:53:43 +0000 https://ngaydacbiet.com/su-tich-xay-thanh-co-loa-va-lai-lich-no-than/ Thục Phán, sau khi thôn tính nước Văn Lang của Hùng Vương thứ 18, đổi quốc hiệu Âu Lạc. Là vị vua hết sức chăm lo đến việc triều chính, nên sau khi mở mang bờ cõi, An Dương Vương đã nghỉ ngay đến việc củng cố và phòng thủ quốc gia, mà trước hết […]

Bài viết Sự tích xây thành Cổ Loa và lai lịch nỏ thần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Thục Phán, sau khi thôn tính nước Văn Lang của Hùng Vương thứ 18, đổi quốc hiệu Âu Lạc. Là vị vua hết sức chăm lo đến việc triều chính, nên sau khi mở mang bờ cõi, An Dương Vương đã nghỉ ngay đến việc củng cố và phòng thủ quốc gia, mà trước hết phải xây dựng một Kinh đô mới, để làm kế bền vững lâu dài.

Thấy Phong Châu không thích hợp nữa, An Dương Vương tìm đến miền Cổ Loa (thuộc Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để chọn đất xây dựng Kinh đô. Khi chọn xong, Ngài truyền lệnh đi khắp cả nước, triệu tập đinh tráng, thay phiên nhau về Cổ Loa đắp lũy xây thành.

Thời ấy, vì không hiểu kết cấu nền móng, lại chưa biết sản xuất gạch nung và sử dụng vôi vữa, nên thành xây đến đâu bị đổ đến ấy, vì lượng đất quá lớn đã đè xuống nền đất mềm phía dưới.

Cả triều đình họp lại, nhưng chẳng ai tìm ra được kế sách gì. Nhà vua sai lập đàng tràng, rồi tự mình trai giới đủ mười ngày, sau đó bày biện lễ vật cầu cúng.
Nghi lễ thật trọng thể. Lễ vật thật chu đáo. Có đủ thịt tam sinh đến sôi chè, hoa quả và các thứ cao lương mỹ vị. Rượu bày ra lũ lượt hàng vò. Đèn nến thắp sáng trưng. Khói hương trầm nghi ngút.

Nhà vua mặc đại lễ phục, tóc để xõa, chắp hai tay, nghiêm trang đứng trước đàn tràng, đọc lời cầu khẩn.

Đêm hôm ấy, An Dương Vương nằm mộng, thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đi từ phía biển lên, báo cho biết: Sáng mai sẽ có thần Kim Quy là sứ giả của thần Thanh Giang đến giúp.

Sáng hôm sau, theo lệnh nhà vua, tất cả văn võ bá quan cùng thị vệ đứng trực ở ngoài cổng thành. Đúng đầu giờ Thìn, từ phía biển, một rùa vàng rất lớn hiện ra, rồi vươn cao đầu, tiến vào. Bốn thị vệ vội vàng quỳ xuống, đặt chiếc mâm bằng đồng cực lớn cho rùa trèo lên, rồi khiêng vào trong trướng phủ.

Nhà vua ra tận ngoài thềm để đón thần Kim Quy (rùa vàng) và thi lễ rất mực cung kính. Sau khi chủ khách tề tựu trong phòng, thần lên tiếng trước:

– Thành sở dĩ không xây cao được là do có nhiều loài yêu quái đến quấy phá. Ở dưới thủy cung, thấy dân chúng và quân lính mệt nhọc, lại có lời thỉnh cầu của nhà vua, nên Đức Thanh Giang đã phái tôi đến đây để trị giúp Ngài. Tôi sẽ vì quân dân Âu Lạc mà ra tay tiểu trừ bằng hết lũ yêu quái này. Yêu quái diệt xong, chẳng mấy chốc nhà vua sẽ có thành trì thật như ý.

An Dương Vương vô cùng mừng rỡ, sai đặt tiệc chiêu đãi thần thật đặc biệt, rồi đích thân dẫn thần đến ở trong một cung thật kín đáo đã được trang hoàng lộng lẫy. Trước khi chia tay, thần hẹn nhà vua sau ba ngày nữa sẽ quay lại.

Trong ba ngày, thần Kim Quy đã làm ra không biết cơ man nào là bùa pháp! Chúng được xếp làm ba đống lớn xung quanh chỗ thần nằm. Đống thứ nhất, nhỏ nhất, xếp ở bên ngoài, được nhuộm màu đỏ. Đống thứ hai, ở giữa, nhiều gấp bốn lần, được nhuộm màu xanh. Đống thứ ba, ở trong cùng, lại nhiều gấp mươi lần của đống thứ nhất, được nhuộm màu vàng.

Từ trước đến nay, có lẽ chưa ai khám phá ra được điều bí mật nằm ở bên trong mỗi đạo bùa pháp ấy! Tuy nhiên, nhìn bên ngoài có thể thấy chúng là hình vặn thừng, như những bùa pháp mà các thầy phù thủy, thầy cúng vẫn làm ngày nay. Chứa đựng bên trong bùa pháp có lẽ là chút vảy, chút móng hay một chút gì đó trong cơ thể của thần, nhưng đó chỉ là những điều phỏng đoán. Chỉ biết trong ba ngày mà thần làm được nhiều bùa như vậy thì quả là một kỳ tích!

Đúng sáng thứ tư, An Dương Vương đến trước cung thất. Thần Kim Quy thong thả “bước” ra. Thần dẫn nhà vua ra khỏi trướng phủ, đến khu thành trì xây dựng cũ. Thần lắc đầu, rồi ra hiệu cho nhà vua theo mình. Thần lại bảo nhà vua mang theo năm mươi lính hộ vệ, mỗi người ôm một bó cọc tre gồm năm mươi chiếc, đi theo. Hễ thần Kim Quy đi tới đâu là An Dương Vương và lính hộ vệ lại đi tới đó và được đánh dấu bằng những chiếc cọc.

Hết ngày thứ nhất, thần và nhà vua trở về trướng phủ. Thần bảo nhà vua chuẩn bị một vạn cọc tre để đóng xuống bốn xung quanh những cọc đã đánh dấu. Mỗi cọc tre sẽ là một gốc tre già, thẳng và lớn, dài đúng năm thước (bằng 2m bây giờ), ở đầu dưới có vạc nhọc. Trước khi đóng xuống đất, bùa phép mầu đỏ sẽ được “yểm” vào trong đốt cuối cùng, ở chỗ có vạc nhọn.

Từ ngày thứ hai trở đi, giai đoạn ” thi công” lần nhất bắt đầu. Hàng vạn tráng đinh và binh lính đi làm cọc tre, rồi gánh đất đá đổ lên những phần đất đã đóng cọc. Chờ ba ngày sau, mộ bức tường đất hình vòng tròn hiện ra.

Giai đoạn “thi công” lần thứ hai liền được tiếp tục. Bốn vạn tráng đinh và binh lính được huy động làm bốn vạn cọc tre, ở phần vạn nhọn sẽ “yểm” bùa pháp màu xanh vào. Trong ba ngày này, thần Kim Quy lại dẫn An Dương Vương và hai trăm lính hộ vệ, mỗi người ôm một bó cọc năm mươi chiếc, đi theo. Hễ thần “đi” đến đâu, là nhà vua và quân lính lại đi tới đó, rồi cọc nhọn đánh dấu. Cọc tre đã “yểm” bùa màu xanh liền được đóng tiếp vào bốn xung quanh, rồi theo đó, đất đá lại được gánh, đổ xuống và nện chặt. Bảy ngày nữa, lại một tường hình tròn, ở bên ngoài và ôm lấy bức tường lần trước hiện ra.

An Dương Vương cho tráng đinh và binh lính nghỉ ngơi ba ngày để lấy sức, chuẩn bị bước vào giai đoạn “thi công” lần cuối. Cũng trong ba ngày đó, đinh tráng và cả dân cúng nữa, lại được huy động thêm, vì lần này số nhân lực sẽ phải cần đến rất nhiều.

Đến ngày thứ tư, tức là ngày thứ mười sáu, kể từ khi bắt đầu “thi công”, mười vạn tráng đinh, binh lính và dân chúng đã có mặt, mỗi ngưòi làm một cọc tre có “yểm” bùa màu vàng. Trong lúc mọi người làm cọc thì thần Kim Quy lại dẫn An Dương Vương cùng năm trăm lính hộ vệ vẫn mang theo mỗi người năm mươi cọc nhỏ, đánh dấu. Mỗi khi cọc nhỏ đóng xong, thì cọc lớn có có “yểm” bùa, liềm được đóng vào bốn xung quanh, và đất đá cũng được đỗ xuống, nện chặt.

Lần này, vì số lượng nhiều gấp hai lần rưỡi lần thứ hai, nên thời gian “thi công” phải mất nhiều hơn. Nhưng cũng chỉ mười bốn ngày sau, búc tường đất thứ ba cũng hoàn thành, ở bên ngoài và bao quanh bức tường lần trước.

Thế là thành đã được xây xong, vì lũ yêu quái đã bị bùa pháp và cọc nhọn tiêu diệt rồi.! Tính ra, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng mà đã xây dựng được ba bức tường có chu vi lớn như thế (có dấu vết còn lại đến ngày nay) thì quả là một lỳ tích ở vào thời bấy giờ. Qua sự kiện này cũng còn có thể thấy thêm: quân dân ta trong thời kỳ nước Âu Lạc, khi cần thì có thể tập trung được một lực lượng hùng hậu như thế nào.

Thành lúc ấy chưa có tên gọi, vì vùng đất Cổ Loa cũng chưa có tên, nhưng do có ba lớp tường đất, mà lớp bên trong, theo thứ tự, lại có hơn lớp bên ngoài, nên từ xa nhìn vào, thành giống hình một vỏ ốc khổng lồ. Tên “thành Ốc” do vậy mà có. Các nhà chép sử đời sau gọi và viết là “Loa thành” cho sang trọng hơn, nhưng thực ra chỉ là phiên âm từ từ Việt sang từ gốc Hán. Về sau này, khi vùng đất Cổ Loa có tên gọi, thì thành cũng được mang tên là thành Cổ Loa.

Khi xây thành xong, An Dương Vương vô cùng sung sướng, cho binh lính và dân chúng ăn mừng suốt ba ngày liền. Lại khoản đãi thần Kim Quy rất hậu tình và chu đáo. Thế nhưng cũng đã đến lúc phải chia tay. Nhà vua đặt tiệc thật lớn để tiễn thần, có đông đủ văn võ bá quan cùng tham dự.

Trong hai việc hệ trọng mà từ trước đến nay An Dương Vương vẫn thường bận tâm lo lắng, là xây thành và có vũ khí thật lợi hại, thì một việc đã xong, nhưng còn việc kia, liệu có thể nhờ cậy thêm ở thần được chăng? Vì vậy, trước lúc chia tay, nhà vua đã nói với thần:

– Thật muôn đội ơn thần, nếu không có thần cất công khó nhọc thì dân chúng Âu Lạc này biết đến bao giờ mới có thể xây xong thành được. Tuy thế, nhưng chẳng dám dấu thần, nếu vạn nhất sau này có xảy ra giao chiến, quân giặc bủa vây đông đúc, tên nỏ trong thành bắn ra không xuể, thì liệu có cách nào, xin thần cũng dạy bảo cho quân dân Âu Lạc được nhờ.

Thần Kim Quy mỉm cười, điều An Dương Vương lo lắng thần cũng đã biết từ lâu. Thần cúi xuống tước một chiếc móng vuốt ở mé bàn chân phải, đưa cho nhà vua bảo:

– Nhà vua khỏi phải nói, ta cũng đã hiểu. Nay ta tặng nhà vua vật này để dùng làm lẫy nỏ. Chỉ cần đem nỏ có lẫy này bắn ra vài phát là phá tan được quân giặc. Tuy thế cũng không thể chủ quan, lơ là việc canh phòng và củng cố lực lượng.
An Dương Vương cung kính cúi đầu, rồi chấp hai tay lại vái thần, cử chỉ có phần còn rất lưu luyến. Thấy vậy, thần Kim Quy lại bảo:

– Thôi, ta còn nhiều việc khác phải lo. Nhà vua hãy ở lại trong coi việc nước, cốt sao cho được trên thuận dưới hòa. Nếu mai sau, rủi có xảy ra chuyện gì chẳng lành, thì cứ gọi ba lần “Sứ giả Thanh Giang” là ta sẽ đến giúp.

An Dương Vương và cả triều thần lại cung kính chắp tay, cúi đầu từ biệt. Thần Kim Quy thong thả quay trở ra phía biển.

Nhà vua đưa chiếc vuốt đang cầm trên tay cho Cao Lỗ, viên Đại tướng phó tổng chỉ huy quân đội, bảo đi làm nỏ, tra lẫy đúng như lời thần đã dặn.

Khi nỏ làm xong, đem ra bẳn thử, mỗi phát có đến hàng ngàn mũi tên vun vút bay đi. An Dương Vương vô cùng thích chí reo lên:

Thế là từ nay trở đi, ta chẳng có điều gì phải lo lắng nữa.

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Sự tích xây thành Cổ Loa và lai lịch nỏ thần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/su-tich-xay-thanh-co-loa-va-lai-lich-no-than/feed/ 0
Ngọc Phượng công chúa (Ngọc Trinh công chúa) https://ngaydacbiet.com/ngoc-phuong-cong-chua-ngoc-trinh-cong-chua/ https://ngaydacbiet.com/ngoc-phuong-cong-chua-ngoc-trinh-cong-chua/#respond Fri, 16 Jul 2021 00:53:44 +0000 https://ngaydacbiet.com/ngoc-phuong-cong-chua-ngoc-trinh-cong-chua/ Thời Hai Bà Trưng chuẩn bị khởi nghĩa, ở xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phú ngày nay, có hai ông bà Lê Hoàn và Nguyễn Thị Kim sinh được hai người con gái xinh đẹp, đặt tên Chàng và Chạ. Ả (tức là chị, tiếng Việt cổ) Chàng lớn lên bị quan lại […]

Bài viết Ngọc Phượng công chúa (Ngọc Trinh công chúa) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Thời Hai Bà Trưng chuẩn bị khởi nghĩa, ở xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phú ngày nay, có hai ông bà Lê Hoàn và Nguyễn Thị Kim sinh được hai người con gái xinh đẹp, đặt tên Chàng và Chạ.

Ả (tức là chị, tiếng Việt cổ) Chàng lớn lên bị quan lại nhà Hán bắt về làm tỳ thiếp, đã phẫn uất mà chết.

Ông bà Lê Hoàn vừa thương con vừa căm thù quân xâm lược, ít lâu sau cũng đều mang bệnh và qua đời.

Ả Chạ được ông cậu đem về nhà nuôi đến tuổi trưởng thành, lấy tên là Lê Ngọc Trinh. Lê Ngọc Trinh quyết chí trả thù quân đô hộ nhà Hán.

Ngày đêm bà tập luyện võ nghệ và chiêu tập lực lượng. Chẳng bao lâu, nghĩa quân do bà chỉ huy đã đánh cho quân Hán những đòn thất điên bát đảo.

Khi Hai Bà Trưng dựng nghiệp, bà đem quân về Mê Linh tụ nghĩa, rồi tham gia nhiều trận đánh triệt hạ thành trì quân giặc, giải phóng đất nước.

Hai Bà Trưng xưng vương, bà được phong là “Ngọc Trinh công chúa, Đại tướng quân“, rồi đưa quân bản bộ về vùng Vĩnh Tường làm ăn sinh sống.

Khi quân Mã Viện kéo sang, bà lại cùng nghĩa quân lên đường tham gia chiến đấu. Hai Bà Trưng rút về Cẩm Khê thì bà rút về trại Đàm Luân. Tên phó tướng Lưu Long được Mã Viện giao nhiệm vụ bất ngờ bao vây trại này. Một trận chiến đấu vô cùng ác liệt đã diễn ra tại đây, suốt một ngày trời.

Quân giặc đông, tuy bị chết nhiều nhưng chúng vẫn ồ ạt xông tới. Bà Ngọc Trinh múa kiếm, tả xung hữu đột giữa trận tiền. Khi kiếm gãy, bà vứt xuống đất, rồi dùng ngay thiết lĩnh để giết giặc. Thiết lĩnh là tấm vải một đầu có buộc đá, còn đầu kia quấn vào tay, cứ thế vung ra thành những vòng tròn, đi tới đâu quân giặc dạt ra tới đó, thật vô vùng lợi hại.

Tên tướng giặc thấy vậy tức giận, cứ thúc quân lính xông bừa vào. Những chiếc sọ giặc vỡ bôm bốp, óc lẫn máu phọt ra lênh láng, và tấm dây vải cuối cùng cũng bị đứt, hòn đá văng ra xa. Bà Ngọc Trinh phi ngựa về phía đầm sen trong trại, rồi cứ thế lao thẳng xuống vực, không chịu để rơi vào tay giặc.

Tấm vải mà bà vứt lại là thuộc địa phận làng Hòa Lan, còn hòn đá thì văng ra địa phận Lũng Ngoại.

Để tưởng nhớ công lao của bà tướng dũng cảm đã bỏ mình vì nước, mọi người hai làng Hòa Lan và Lũng Ngoại thuộc xã Lũng Hòa đã lập đền thờ và tôn bà là Thần Thành Hoàng.

Hàng năm mở hội làng, ở Hòa Lan có trò chơi kéo co, còn ở Lũng Ngoại có trò chơi hú đáo.

Kéo co là trai gái trong làng chia làm hai bên cùng kéo một sợi dây ong, bên nào kéo sang được phía mình là thắng. Còn hú đáo là lấy đá ném vào một chiếc cọc nhỏ chôn cách khoảng mười bước chẩn rộng, hễ cứ ném trúng là được.

Những trò chơi rất bình thường và dân giã ấy chính là để tưởng nhớ chiến công của vị anh hùng từ thuở xa xưa.

Lại có thuyết nói: Khi gươm gãy, bà Ngọc Trinh không vứt xuống đất mà đã cởi yếm ra, buộc phần kiếm còn lại vào một đầu, rồi cầm đầu kia vung ra bốn phía giết giặc. “Yếm” thuở ấy là một tấm vải quấn quanh ngực, và như vậy, ngay lập tức đã trở thành một vũ khí lợi hại.

Sắc thượng phong của triều Lê, do kiêng tên của một vị công chúa tại triều là Lê Thị Ngọc Trinh, nên đã đổi tên bà thành “Ngọc Phượng công chúa“.

Rõ là một việc làm tùy tiện của vua chúa khi đã nắm quyền hành tuyệt đối!

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Ngọc Phượng công chúa (Ngọc Trinh công chúa) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/ngoc-phuong-cong-chua-ngoc-trinh-cong-chua/feed/ 0
Ngọc Quang Công Chúa https://ngaydacbiet.com/ngoc-quang-cong-chua/ https://ngaydacbiet.com/ngoc-quang-cong-chua/#respond Thu, 15 Jul 2021 21:46:35 +0000 https://ngaydacbiet.com/ngoc-quang-cong-chua/ Dưới thời thuộc Hán, ở thôn cự lai xã Sơn Dược thuộc động Hoa Lư, phủ Trường Yên, Ninh Bình, có vợ chồng ông Vương Khôi hiền lành, nhân đức, chăm làm việc thiện nhưng đứng tuổi rồi mà vẫn chưa có con. Hai ông bà thường cầu khấn khắp nơi, mong trời phật phù […]

Bài viết Ngọc Quang Công Chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Dưới thời thuộc Hán, ở thôn cự lai xã Sơn Dược thuộc động Hoa Lư, phủ Trường Yên, Ninh Bình, có vợ chồng ông Vương Khôi hiền lành, nhân đức, chăm làm việc thiện nhưng đứng tuổi rồi mà vẫn chưa có con. Hai ông bà thường cầu khấn khắp nơi, mong trời phật phù hộ độ trì, và bản thân cũng chăm làm nhiều việc thiện hơn nữa.

Một đêm, bà Vương đang nằm bỗng thấy lâng lâng tựa như đang bay bổng lên không trung, rồi thấy mình được dẫn vào một cung điện. Vị tiên chủ ra tiếp đón rất nồng hậu rồi ân cần nói: “Đây là điện Ngọc Quang. Lượng trời vốn chẳng hẹp gì. Lòng thành của hai ông bà đã được hai ông bà soi tỏ, nên Ngài đã cho một tiên nữ trong điện này xuống đầu thai làm con của ông bà”. Nói xong, tiên chủ cho gọi tiên nữ ra. Bà Vương mừng quá, vội vàng đứng dậy thi lễ …

Ngồi lại nói chuyện một lát, bà Vương thấy có tiên nữ nữa đến mời tiên chủ đi tiếp kiến Ngọc Hoàng, thế là bà đứng dậy xin phép ra về. Vừa ra khỏi cung điện, đi được một quãng, bà Vương cảm thấy như chạm vào một vật gì đó và người bỗng hẫng lại. Thế là bà tỉnh mộng.

Bà kể lại câu chuyện đó với chồng, và cả hai ông bà đều vô cùng mừng rỡ.

Quả nhiên, chín tháng mười ngày sau bà Vương trở dạ, sinh được một bé gái mặt hoa da phấn, cực kỳ xinh đẹp. Nhớ lại lần thần mộng, hai ông bà đặt tên cho con là Tiên. Ôi! Rõ là cầu được ước thấy, nỗi vui của hai ông bà thực không nói sao cho hết!

Càng lớn lên nàng Tiên mỗi ngày càng thêm lộng lẫy, xinh đẹp. Lại chăm chỉ, nết na và thông thuệ khác thường.

Khi ấy, dưới ách đô hộ của nhà Hán, lòng người ai nấy đều căm giận, cho nên khắp nơi đều có lò luyện võ và mọi người chỉ chờ thời cơ là đứng dậy khởi nghĩa.

Nàng Tiên, cũng như mọi người, đêm ngày hăng say tập luyện, và trong số các môn sinh, nàng nổi bật lên như một nữ tướng siêu phàm, chẳng những tinh tường các ban võ nghệ mà binh pháp, trận đồ cũng đều thông tỏ làu làu. Tiếng lành đồn xa, khắp cả một vùng Trường Yên rộng lớn, ai ai cũng khâm phục và người người đều náo nức tìm về. Các trận thi đấu võ nghệ, các lần bày binh bố trận, thảy đều chứng tỏ nàng Tiên là người tài năng, trí lực phi thường. Lại có phong thái hết mực ung dung, đàng hoàng. Thế là mọi người nhất tề tôn phù nàng Tiên lên làm chủ tướng.

Năm ấy nàng Tiên vừa tròn 18 tuổi. Cũng năm ấy, cả hai ông bà bố mẹ nàng đều già yếu rồi nối nhau lần lượt qua đời. Nàng Tiên lo cư tang báo hiếu bố mẹ đầy đủ rồi lại cùng mọi người lao vào tập luyện. Chẳng mấy chốc quân số của nàng đã lên tới mấy ngàn người, khí giới được trang bị đầy đủ, lại có đủ lương thực dự trữ. Nàng Tiên dẫn quân đi chiếm phủ Trường Yên và các vùng xung quanh. Quân giặc chống cự yếu ớt rồi sợ hãi bỏ chạy. Thanh thế của nàng Tiên lừng lẫy khắp các miền.

Khi ấy, Hai Bà Trưng cũng đã dựng cờ khởi nghĩa. Hay tin, nàng Tiên dẫn quân bản hộ về Mê Linh …

Đêm hôm trước ngày tụ nghĩa, bà Trưng Trắc nằm mộng thấy sứ thần trên trời xuống báo ngày mai có nàng Tiên ở điện Ngọc Quang sẽ đến ra mắt. Sứ thần còn tả cả dung mạo, trang phục của nàng Tiên rồi mới trở về trời.

Sáng hôm sau, đang còn hồ nghi về giấc mộng đêm qua thì Hai Bà Trưng được báo có vị nữ tướng ở Trường Yên đến gặp. Hai Bà ra đón thì quả nhiên đúng như lời vị sứ thần đã báo trước. Hai Bà cả mừng, phong ngay cho nàng Tiên là Ngọc Quang công chúa, rồi giữ luôn lại ở bên mình, cùng chỉ huy đạo quân ở trung lộ, tiến đánh Luy Lâu.

Khi đuổi xong Tô Định, Hai Bà Trưng xưng vương, Ngọc Quang công chúa được cấp thực ấp ở Trường Yên và cai quản cả một vùng Châu Ái.

Mã Viện kéo quân sang, Hai Bà Trưng xuất trận, đọ sức với giặc ở Lãng Bạc rồi rút về Cẩm Khê, tiếp tục chiến đấu. Lúc này Ngọc Quang Công chúa cũng kịp xuất quân từ Trường Yên ra trợ chiến. Bà phi trên mình ngựa múa tít trường thương, xông pha giữa trận tiền, vừa giết giặc vừa bảo vệ hai vị chủ tướng. Quân ta vừa đánh vừa rút chạy. Trên mình bà mang mười vết thương nhưng bà vẫn không hề nao núng. Hai Bà Trưng chạy về phía cửa sông Hát, còn bà thì mở một đường máu, chạy về xã Mã Phan thuộc huyện Lập Thạch, Vĩnh Phú ngày nay, chỉ còn lại có 14 quân bảo hộ bên cạnh. Quân giặc vẫn đang ráo riết đuổi theo. Bà hét lên một tiếng, cùng quân sĩ quay lại tử chiến. Bọn giặc lăn ra chết hàng loạt nhưng phía quân ta, tất cả những người đi theo bà cũng đều bỏ mạng. Trong đêm tối, một mình trên lưng ngựa, bà chạy miết về phía nam, xuống phủ Thiên Trường, mấy tên giặc còn lại cũng không dám đuổi theo nữa.

Đến địa đầu xã Hữu Bị thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Hà ngày nay, trước mặt là dòng sông rộng nước chảy xiết, cũng là lúc sức cùng lực kiệt, bà ngửa mặt lên trời khấn: “Xin phó thác thân này cho sông nước.Cầu xin trời đất cho trôi về bản quán, đừng để rơi vào tay lũ giặc tanh hôi”. Khấn xong bà phi ngựa xuống sông tự vận. Đó là rạng sáng ngày 12 tháng 12 Âm lịch.

Mấy hôm sau, ở mé bờ sông thuộc địa phận Cự Lai, Ninh Bình có xác người, ngựa trôi dạt vào. Dân chúng đổ ra xem, thấy vị chủ tướng cũ của mình, đều vô cùng thương xót, bèn cùng nhau kính cẩn vớt lên, làm lễ an táng rồi sau đó lập đền thờ. Tôn hiệu vẫn giữ là Ngọc Quang Công Chúa.

Từ đó Ngọc Quang công chúa vẫn thường hiển linh, phù hộ độ trì cho dân cho nước.

Đời Lý Thái Tông, nước ta có hạn hán lớn. Nhà vua sai lập đàn tràng cầu mưa. Đêm hôm ấy, Lý Thái Tông vừa chợp mắt, trông thấy một nàng công chúa từ xa tiến lại. Nhà vua bèn ngồi dậy hỏi chuyện. Công chúa cho biết mình đang ngự tại thôn Cự Lai, vâng mệnh Ngọc Hoàng đã làm mưa theo lời cầu khẩn của nhà vua. Lý Thái Tông tỉnh dậy, nhìn ra ngoài, quả nhiên lúc ấy trời đang đổ nước xuống như trút.

Hôm sau thiết triều, nhà vua truyền cho Quốc sử quán và bộ Lễ tra cứu tra cứu lại lai lịch các vị thần.

Khi được biết thần thành hoàng thôn Cự Lai là Ngọc Quang Công chúa, nhà vua bèn gia phong thêm hai chữ nữa, gọi đầy đủ là: “Ngọc Quang Thiên Lương Công chúa”.

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Ngọc Quang Công Chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/ngoc-quang-cong-chua/feed/ 0
Nhị vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát https://ngaydacbiet.com/nhi-vi-tuong-quan-truong-hong-truong-hat/ https://ngaydacbiet.com/nhi-vi-tuong-quan-truong-hong-truong-hat/#respond Thu, 15 Jul 2021 19:00:49 +0000 https://ngaydacbiet.com/nhi-vi-tuong-quan-truong-hong-truong-hat/ Hai anh em Trương tướng quân, người anh là Hống, người em là Hát, đều là tướng giỏi của Việt vương Triệu Quang Phục. Khi sinh thời, hai vị đã theo giúp Triệu Việt Vương lập được nhiều chiến công lẫy lừng. Sau khi giết Dương Sằn, đuổi quan quân nhà Lương về nước, lúc […]

Bài viết Nhị vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>

Hai anh em Trương tướng quân, người anh là Hống, người em là Hát, đều là tướng giỏi của Việt vương Triệu Quang Phục. Khi sinh thời, hai vị đã theo giúp Triệu Việt Vương lập được nhiều chiến công lẫy lừng. Sau khi giết Dương Sằn, đuổi quan quân nhà Lương về nước, lúc ấy (tiền) Lý Nam Đế đã mất, Triệu Việt Vương bèn tự lập lên làm vua, được 23 năm (548-570) thì bị (Hậu) Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) phản trắc, đem quân tới đánh. Triệu Việt Vương không phòng bị đã bị thua, rồi theo Long Vương xuống thủy cung ở cửa Đại Nha.

Các tướng của ngài, một số tử trận, một số khác còn sống, chạy tản mác các nơi, cùng với những toán quân ít ỏi của họ.

Vốn là kẻ gian hùng xảo quyệt, Lý Phật Tử tính rằng nếu còn để các tướng này thì sẽ ăn không ngon, ngủ không yên. Mang quân đi đánh tiếp nữa thì vừa khó nhọc, vừa mang tiếng là không đại lượng Đã lấy được ngôi chủ rồi thì phải để bàn dân thiên hạ trông vào: Ta đây cũng biết trọng nhân tài chứ!

Biết anh em Trương Hống, Trương Hát là những tướng giỏi của Triệu Việt Vương hiện đang còn sống và chưa chịu đầu hàng, Phật Tử cho mang lễ vật rất hậu đến, lại dặn viên sứ giả hứa đại là “nhà vua” sẽ trọng dụng, ban tước lộc còn trọng hơn trước, nếu chịu về hàng …

Sứ giả ra đi, đinh ninh sẽ nói đúng những lời chủ (Hậu) Lý Nam Đế đã dặn, tuy trong thâm tâm vẫn không hiểu lần này nhà vua thật lòng hay chỉ là kế điệu hổ ly sơn của một kẻ chuyên lừa đảo, phản trắc …

Cũng như Triệu Việt Vương, hai anh em Trương Hống, Trương Hát đều rất phẫn nộ khi hay tin Phật Tử trở mặt, mang quân tới đánh úp. Sau khi cùng nhà vua phá vòng vây, hai anh em chạy ngược lên vùng núi non hiểm trở, nhưng quân lính dưới quyền đã lạc hoặc chết gần hết, nay chỉ còn lại vài người. Khi biết nhà vua đã hóa ở cửa Đại Nha, hai anh em trương khóc thảm thiết, rồi sau đó bàn với mấy người lính vào sâu trong rừng, tìm kế làm ăn sinh sống trước mắt …

Lúc sứ giả của (Hậu) Lý Nam Đế tìm đến thì thấy mọi người đang cuốc đất trồng cây. Ông ta đưa lễ vật rồi nói những lời đúng như (Hậu) Lý Nam Đế đã căn dặn. Trương Hống thay mặt mọi người, trả lời sứ giả như sau:

– Ông về thưa lại với người đã phái ông đến đây rằng chúng tôi từ trước đến nay chỉ biết có Triệu Việt Vương là vua. Chúa của ông chưa thấy giặc đến đã chạy, chỉ được cái giỏi lừa đảo, phản trắc, đem quân đánh cả người nhà. Chúng tôi thà chết chứ không chịu quỳ gối trước một người như vậy. Ông hãy đem những thứ này về nói lại lời của chúng tôi như thế.

Sứ giả ra về, đem các việc tâu lại với (Hậu) Lý Nam Đế. Tất nhiên ông ta chẳng dám nói đúng những lời của Trương Hống đã nói, mà chỉ bảo : ”Họ không chịu về hàng”.

(Hậu) Lý Nam Đế cười gằn :”À! Chúng muốn chết thì được chết!”, nhưng trong bụng lại nghĩ “Họ sợ bị ta lừa đây. Khá lắm!”.

Sau khi hỏi sứ giả, biết được quân số của Trương Hống, Trương Hát chẳng còn bao nhiêu, (Hậu) Lý Nam Đế cử một viên tướng thiện chiến dẫn hẳn một đội quân đi đánh.

Khi viên tương cùng đội quân này đến dàn thế trận bao vây thì anh em Trương Hống, Trương Hát thấy sức mình địch không nổi, bèn quay đầu rút chạy. Bọn quan quân đuổi theo. Sau mấy ngày len lỏi trong rừng ở miền núi Phù Long, mất người lính bị lạc hết, chỉ còn lại hai anh em.

Tuy sức cùng lực kiệt nhưng nhất định không chịu để rơi vào tay đối phương, nên hai anh em bèn tìm đến cây lá ngón, rồi cùng ăn mà chết …

Sự việc đó xảy ra vào năm 571. Tuy vậy, tiếng thơm của hai anh em còn truyền mãi đến các đời về sau …

Năm 951, tức là 380 năm sau, khi ấy Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn cùng anh là Thiên Sách Ngô Xương Ngập đang trị vì đất nước …

Xương Văn, Xương Ngập đều là con của Ngô Quyền, người đã đánh thắng quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng và xưng vương năm 939.

Sau khi Ngô Quyền mất (944), Dương Tam Kha chiếm ngôi (945-950). Ngô Xương Văn đánh đuổi được Tam Kha, khôi phục lại vương quyền (951).

Khoảng cuối năm ấy, Nam Tấn Vương trên đường dẫn quân đi đánh Lý Huy nổi loạn ở châu Tây Long, đã đóng quân ở cửa Phù Lan. Đây cũng là vùng mà 380 năm trước đây, hai vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát đã tự tận.

Nửa đêm hôm đó, đang nằm trong màn trướng, Nam Tấn Vương thấy hai người tướng mạo khôi nhô, mình mặc chiến bào, đầu đội mũ trụ, tay cầm binh khí, tiến đến trước mặt cùng vái mà nói rằng:

– Chúng tôi là hai anh em tên gọi Trương Hống, Trương Hát, là tướng dưới triều Việt Vương Triêïu Quang Phục, bị Lý Phật Tử làm phản. Sau đó Phật Tử gọi hàng, chúng tôi không theo, cùng tự chết. Ngọc Hoàng Thượng đế xét chúng tôi có lòng trung, vẫn cho cai quản vùng này cùng trăm vạn thiên binh để cứu khốn phò nguy khi quốc gia lâm sự. Hôm nay, thấy nhà vua đến đây dẹp loạn, chúng tôi xin ra mắt, hứa sẽ đem thiên binh đến nơi giáp chiến để phò trợ.

Nam Tấn Vương cả mừng:

– Xin đa tạ hai tướng quân lắm lắm. Ngày trước cha tôi có nói khi đánh quân Nam Hán, hai tướng quân cũng đã giúp công, góp sức rất nhiều, nên Hoằng Tháo bị chém đầu, quân giặc bị tan vỡ. Nay gặp ở đây, xin thay mặt Đức tiên đế, nói lời cảm tạ với hai tướng quân. Còn trận đánh ngày mai, chưa biết lực lượng địch quân bố trí ra sao, nên còn băn khoăn chưa biết điều binh dàn trận như thế nào, dám mong hai tướng quân cao minh có lời chỉ giáo.

Nam Tấn Vương vừa nói hết câu đó thì thấy bỗng nhiên bên ngoài cửa màn trướng có tiếng bước chân, rồi tiếng người nói xôn xao. Nhà vua giật mình tỉnh dậy, còn đang tiếc nuối giấc chiêm bao, thì đã thấy lính canh bước vào tâu:

– Muôn tâu Bệ hạ! Ở cạnh doanh trại, quân ta vừa bắt được tên lính giặc đang đêm lẻn vào dọ thám. Nay dẫn đến xin trình bệ hạ.

Tên lính được dẫn vào. Nam Tấn Vương gặng hỏi mãi thì y chỉ một mực khai:

– Bẩm … Tôi được lệnh đi do thám. Còn ngoài ra, là lính nên chẳng biết gì thêm.

Nam Tấn Vương tức giận, sai lính mang tên giặc đi chém ngay.

Sáng hôm sau, nhà vua ra lệnh vượt sông, xuất kích.

Quân của Nam Tấn Vương ùn ùn kéo lên, vây kín dãy núi Côn Lôn là nơi quân của Lý Huy đang ẩn nấp trong đó. Quân của Lý Huy ít hơn, tuy bị vây hãm, nhưng vì là lính địa phương nên thông thuộc địa hình đại vật, vẫn chống trả quyết liệt. Họ dựa vào những thế núi, cánh rừng hiểm trở, xuất kỳ bất ý xông ra, làm cho quân của Nam Tấn Vương trở tay không kịp, bị thiệt hại khá nhiều, khí thế trong quân ngũ cũng vì thế đã có phần giảm sút … Nam Tấn Vương bèn rút quân về doanh trại cũ.

Một đêm, Nam Tấn Vương đang ngồi trong màn trướng suy nghĩ cách bài binh bố trận sắp tới thì mệt quá rồi ngủ thiếp đi. trong giấc mơ màng nhà vua lại thấy hai vị tướng quân lần trước xuất hiện. Nhà vua cả mừng thi lễ, một vị nói:

– Thật tiếc cho nhà vua, bữa trước đang bàn tính chưa xong. Ngày mai, nhà vua hãy chia binh ra làm hai ngã. Một ngã tiến về sông Vũ Giang qua sông Như Nguyệt, rồi tiến đến đầu sông Phú Lương. Một ngã khác đi ven sông Lạng Giang, rồi vào sông Nam Bình. Lúc ấy, từ hai ngã sẽ cùng tấn công. Thiên binh của hai em chúng tôi cũng sẽ chia làm đôi, rồi từ hai hướng yểm trợ. Nhất định ngày mai nhà vua sẽ thắng lớn.

Nói xong, hai vị liền biến mất. Nhà vua tỉnh dậy, nhẩm tính lại các việc trong đầu, rồi tự hạ quyết tâm ngày mai thế nào cũng phải phá tan quân giặc.

Sáng hôm sau, nhà vua chia quân ra làm hai, rồi lệnh cho các tướng đi theo làm hai hướng đã định đêm qua. Quân của Lý Huy tưởng quân của Nam Tấn Vương rút lui, liền rời núi về tập trung tại đấy, vì thế đã rơi vào đúng gọng kìm. Thế là chỉ cần một trận. Lý Huy bị chém đầu, còn quân lính bị chết hoặc bị bắt làm tù binh.

Trở về Kinh đô ở Loa Thành (thành của An Dương Vương ngày trước), Nam Tấn Vương, để tưởng nhớ công lao hai vị thần linh, xuống chiếu phong người anh (Trương Hống) làm “Đại Dương giang đô hộ quốc thần vương”, đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt, em (Trương Hát) làm “Tiểu Dương giang đô hộ quốc thần vương”, đền thờ ở cửa sông Nam Bình. Lại cấp cho dân ở hai nơi ấy ruộng tự điền và cử người trông nom thờ cúng, hương khói quanh năm không lúc nào dứt …

Từ đấy, lịch sử dân tộc đã lật sang nhiều trang mới …

505 năm sau khi Trương Hống, Trương Hát qua đời và 125 năm sau sự kiện Nam Tấn Vương đánh Tây Long, lúc ấy là năm 1076, nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết dẫn 30 vạn quân sang xâm lược nước ta, đang dừng chân ở mạn bắc sông Như Nguyệt để chuẩn bị đánh xuống chiếm kinh thành Thăng Long.

Vùng mà quân giặc đang chiếm đóng cũng chính là địa hạt mà hai vị thần Trương Hống, Trương Hát được giao cai quản từ 505 năm về trước.

Thái úy Lý Thường Kiệt, lúc ấy nhận lệnh nhà vua giao cho thống lĩnh 10 vạn quân Đại Việt để chống nhau với giặc.

Thái úy là nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sư thiên tài, nên Ngài hiểu rõ trạng thái và tinh thần của tướng sĩ và binh lính sẽ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả của trận đánh. Tuy không thể đo đạc chính xác điều đó, nhưng về đại thể, Ngài đã tính toán như sau: “Ba mươi vạn quân địch, vì đánh nhau bất đắc dĩ lại đường xa mệt mỏi nên sức chiến đấu sẽ giảm đi một nửa, chỉ bằng 15 vạn quân.

Mười vạn quân ta, vì chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước, lại ở gần, có các nguồn tiếp tế dồi dào, nên sức chiến đấu sẽ tăng lên gấp đôi, bằng 20 vạn quân.

Đem “so sánh” lực lượng thì rõ ràng quân ta mạnh hơn, quân địch yếu hơn, nên có thể an tâm.

Cái tài của người làm tướng lúc này là phải động viên binh lính, tướng sĩ, biết điều binh khiển tướng hợp lý để tập trung đánh vào nhhững chỗ sơ hở của địch. Không nên dùng tổng lực đánh đối trận, mà chỉ cần xuất kỳ bất ý đánh tiêu diệt bằng máy trận lớn, là quân địch sẽ phải tan rã”.

Tài điều binh khiển tướng của Lý Thái Úy phải nói thật là tuyệt vời, đã được thử thách và tôi luyện từ hồi làm tướng tiên phong của Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành bắt Chế Củ, rồi sau đó cùng Tông Đản dẫn quân đánh ba châu Khâm, Liêm, Ung trên đất Tống, hoàn toàn thắng lợi. Nay trước tình thế mới, quân giặc đang chuẩn bị tràn xuống Kinh đô, vì vậy phải tổ chức phòng ngự chặn chúng lại.

Lý Thái Úy cho tổ chức làm một “hàng rào” dọc theo sông Như Nguyệt (sông Cầu) để cầm chan quân giặc bằng cách triệt phá tuyền bè của chúng và dàn quân sẵn sàng cung nỏ, không cho chúng vượt sông. Từ phòng tuyến này quân ta do thám ra những đich sơ hở, rồi tổ chức những mũi nhọn tấn công chớp nhoáng …

Để cổ vũ tinh thần tướng sĩ và binh lính, Lý Thái Úy đã làm một bì thơ như sau:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ chẳng hành khan thủ bại hư.
(Dịch nghĩa:
Sông núi nước Nam Hoàng đế nước Nam ở
Ranh giới đã phân định rạch ròi ở sách trời.
Cớ sao quân giặc kia dám xâm phạm?
Chúng bay hãy xem, sẽ phải chuốc lấy bại vong!)

Đây là bài thơ làm trong mấy phút xuất thần của Lý Thái Úy, nhưng đấy cũng là kết quả của mấy chục năm cần quân đánh đông dẹp bắc giữ yên xã tắc và giúp nhà vua chấn hưng nước nhà của Ngài.

Phòng tuyến mà quân ta đang họat động bấy giờ lại nằm trên vùng đất có đền thờ hai vị tướng quân trung thành của Việt Vương Triệu Quang Phục thuở trước. Lý Thái Úy biết rất rõ điều đó. Vì vậy Ngài đã nhờ hai vị thần linh này công bố bài thơ trước tướng sĩ và quân lính để cổ vũ họ.

Đêm ấy, đích thân Ngài đến đền thờ Trương Hát ở cửa sông Nam Quận (còn gọi Nam Bình) dâng hương hoa lễ vật và xin thần chuẩn y. Từ cõi mông lung hai vị dũng tướng thần linh (tuy là một đền thờ nhưng lại phối thờ cả hai vị) hiện về qua những cặp mắt lung linh trên hai pho tượng thờ được ánh sáng chiếu vào mà Lý Thái Úy cảm nhận thấy. Hai vị hài lòng, ban xuống lời đồng ý qua việc Lý Thái Úy trực tiếp tung hai đồng tiền xin “âm, dương” trên đĩa. Liền sau đó, một vị nhập hồn ngay vào một vị tướng của Lý Thái Úy đang đứng trước đền. Chính vị tướng này là một vị tướng trẻ dũng cảm, lại có giọng nói sang sảng, được Lý Thái Úy giao cho cầm loa đọc bài thơ.

Vì vậy, khi vị tướng trẻ đọc bài thơ thì tất thảy mọi người đều nhận thấy đó chính là giọng nói của thần thật.

Bằng cả cuộc đời trung dũng của mình, thần đã cất lên tiếng người, dặn dò bảo ban lớp quân sĩ tiến lên giữ vững nền độc lập của dân tộc. Lời thần như thấm vào trong từng mạch máu, con tm của mỗi người!

Được lời thần cổ vũ, từ các điểm tập kết, quân ta bí mật nhất tề xông lên, theo hiệu lệnh của Lý Thái Úy, đã giáng cho quân giặc những đòn thất điên bát đảo.

Quân giặc đông đúc nhưng không thể nào vượt qua được phòng tuyến của quân ta. Mỗi khi màn đêm buông xuống, trong các trại giặc, từ tướng tới quân, chúng đều cảm thấy như có thiên binh vạn mã từ đâu ầm ầm kéo đến … Mà đúng như thế thật. Chính hai vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát đêm nào cũng dẫn thiên binh của mình về phù trợ quân ta, uy hiếp tinh thần quân giặc.

Sau nhiều lần bị đánh bất ngờ, lực lượng hao tổn nhiều, thấy không thể nào vào được kinh thành Thăng Long , Quách Quỳ bèn cho rút quân chuyển hướng về mạn đông bắc (nước ta) chiếm lấy châu Quảng Nguyên, bởi vì nhiều ít thế nào cũng phải có “cái gì” dâng lên vua Tống chứ!

Thế là nền độc lập của nước nhà đã được giữ vững. Ba năm sau (1079) bằng thương lượng, nhà Tống trả lại ta châu Quảng Nguyên, và từ đấy không dám đem quân sang xâm lấn nữa …

Trong chiến công đánh đuổi quân Tống lần này, ngoài lực lượng quân dân một lòng và tài thao lược của Lý Thái Úy, còn có cả “hồn thiêng sông núi” đã hiển linh giúp dập qua hai vị thần tướng Trương Hống, Trương Hát và thiên binh của các Ngài …

Thời ấy và cả sau này, mọi người đều vẫn tin như vậy. Sau chiến thắng, vua Lý Thánh Tông cho tu sửa lại hai ngôi đền thờ hai vị Tướng quân đẹp đẽ, khang trang hơn trước. Đó là một việc làm chính đáng và hợp lòng người, lòng thần.

Các đời về sau, mỗi khi chính vị hay đổi niên hiệu, đều có sắc phong cho hai vị. Còn dân chúng thì đến đền thờ dâng hương hoa. Lễ vật, cầu mong cho sự an cư lạc nghiệp, đất nước thanh bình …

Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,

Bài viết Nhị vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Ngày đặc biệt.

]]>
https://ngaydacbiet.com/nhi-vi-tuong-quan-truong-hong-truong-hat/feed/ 0