Nước ta, trong thời kỳ thuộc Tùy, Đường (603 – 906) sau cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến năm 687, là đến cuộc của Mai Thúc Loan nổ ra năm 722. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn, quân số lên tới hơn ba chục vạn người. Sau thắng lợi, Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế, ở ngôi mười năm rồi mới mất.
Nhà vua quê ở châu Hoan thuộc quận Nhất Nam (nay là miền trung du của Nghệ An), vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân, nhưng là người có tài năng và chí khí lớn. Cha là Mai Sinh, mẹ là Vương Thị, đều là người hiền đức, suốt đời chăm lo chí thú làm ăn và làm nhiều việc nghĩa.
Tương truyền lúc sắp sinh ra nhà vua, bà mẹ nằm mộng thấy một thiếu phụ vận quần áo màu đỏ, đến trao cho một viên ngọc lớn. Bà nhìn xem, thấy đó là viên ngọc bích có năm sắc màu lung linh, hình dáng giống như quả trứng gà nhưng to hơn một chút.
Bà cảm động, giơ tay đón lấy, nhưng chẳng may lỡ hụt, làm viên ngọc rơi xuống đá vỡ tan. Thế là bà tỉnh mộng.
Đến khi sinh, nhận thấy đứa trẻ ở đùi bên trái có vết xanh đen, giống như hình đồng tiền, bà đem chuyện nằm mộng nói lại với chồng. Ông Mai Sinh lấy làm lạ, rồi suy gẫm hồi lâu mà giải mộng như sau:
Ngọc hình quả trứng gà, lại có năm sắc lung linh, đấy là điềm của loài linh điểu mang năm đức tính tốt vận vào. Còn ngọc rơi xuống, có tiếng vang, lại bắn đi khắp nơi, ấy cũng là điềm lành, sau này đứa trẻ nhất định sẽ làm vẻ vang cho gia đình và đất nước, tiếng tăm sẽ vang dậy khắp nơi và lưu lại đến muôn đời.
Chẳng biết ông Mai Sinh có như người ta “với tay một tấc đến trời” hay không, mà chỉ biết niềm tin của ông là sắt đá. Ông mời mọi người đến ăn mừng, rồi tuyên bố đặt con là Phượng, tự là Thúc Loan, lấy ngay các từ trong mộng.
Nhưng thực không may, đến năm Mai Thúc Loan lên mười thì bà mẹ vào rừng kiếm củi bị hổ vồ, ông bố buồn rầu sinh bệnh, chẳng bao lâu sau cũng mất.
Một người bạn của cha là Đinh Thế, gia tư giàu có nhưng lại trọng nghĩa khinh tài, thấy vậy, đem Thúc Loan về nuôi, coi như con đẻ. Ông quả là có con mắt tinh đời, thấy trước mọi việc. Đến khi lớn lên, quả nhiên Mai Thúc Loan có tướng quý và có nhiều tài năng xuất chúng, đúng như lời ông bố đã giải mộng.
Mai Thúc Loan có đầu hổ, mặt rồng, tay vượn, bắp thịt nổi cuồn cuộn, dáng đi hùng dũng hiên ngang và tiếng nói thì sang sảng như sấm. Các môn võ nghệ như côn quyền, giáo mác, cung kiếm, chàng cũng thực cao cường. Lại các cách bày binh, bố trận, chàng cũng đều thông thuộc cả.
Không biết Mai Thúc Loan học những thứ đó từ bao giờ và học với ai, nhưng chỉ biết, bạn bè của chàng rất đông, và trong số họ, đều là những trang nam nhi chí khí, những bậc anh tài trong thiên hạ.
Đó là những người có cùng mục đích cứu nước cứu dân, như sau này sẽ thấy. Và chính Mai Thúc Loan, đã tài năng và đảm lược hơn người, lại tính tình hào hiệp độ lượng, nên đã tập hợp họ lại được.
Ông bố nuôi Đinh Thế biết tất cả những việc mà Mai Thúc Loan đã làm. Chẳng những không ngăn cấm mà ông còn khuyến khích, tạo thêm điều kiện cho chàng làm những công việc đó. Ông hiểu sau này con nuôi ông là người sẽ cần thiết và có ích cho đời. Dân ta đang rên xiết dưới ách thống trị của ngoại bang, phải có những người anh hùng đứng lên để đánh đuổi chúng đi chứ?
Ông Đinh Thế có cô con gái, tuổi cũng xấp xỉ như Mai Thúc Loan, tên gọi Ngọc Tô. Đó là cô gái xinh đẹp, nết na, lại đảm đang tháo vát, được ông rất quý mến. Chẳng hề nề hà con nuôi với con đẻ, ông đem tác hợp cho đôi trẻ khi chúng trưởng thành. Rồi ông chia cho họ nhà cửa, sản vật, ruộng nương cũng thật đầy đủ, chu đáo.
Là cô gái đảm đang, Ngọc Tô lo quán xuyến công việc trong nhà để cho chồng có thời gian tập luyện và đi gặp gỡ bạn bè. Ấy vậy mà, sản vật cứ một ngày một tăng, kẻ ăn người làm trong nhà cũng ngày một đông. Mai Thúc Loan thỏa lòng thù tiếp bạn bè, còn Ngọc Tô cũng luôn tươi cười, không bao giờ có lời phàn nàn nào cả.
Tháng lại ngày qua, gia đình họ sống yên vui đầm ấm, bề ngoài cũng làm ăn sinh sống và sinh con đẻ cái như mọi người, nhưng bên trong, là cả một sự chuẩn bị ráo riết cho ngày khởi sự: Tích trữ lương thực thực phẩm để lo tiếp bạn bè và quân lính sau này. Lúc ấy ông bố nuôi cũng đã mất.
Những người cùng chí hướng, kẻ trước người sau, lục tục tìm về. Phòng Hậu, Thôi Thăng ở Hoa Dương, rồi đến Phục Trường Thủ, Đàn Vân Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sĩ Lâm, Bộ Tân,… đều là bạn bè cũ hoặc bạn bè mới, do mến mộ tài năng Mai Thúc Loan mà tìm đến. Đó là những danh sĩ và những tráng sĩ nổi tiếng đương thời, quê quán chính yếu ở vùng Châu Hoan cả.
Ban ngày những người này ra bãi làm lụng cùng vợ chồng Mai Thúc Loan, nhưng đêm về thì họ tập luyện võ nghệ và bàn tính công việc. Thanh thế của họ lớn dần, thanh niên trai tráng trong vùng tìm đến cũng rất đông. Chỉ trong vòng một tháng quân số đã lên tới mấy nghìn người.
Lúc bấy giờ bên nhà Đường, Võ Tắc Thiên nhiếp chính, đưa anh em dòng họ Võ vào triều đình, khuynh lót dòng họ Lý đang thất thế. Sự lục đục lan ra đến tận các vùng xa xôi. Đất cai trị của nhà Đường khi ấy cũng thực rộng, ở phía Nam, bao gồm cả nước ta lẫn Lâm Ấp và Chân Lạp. Bọn quan lại nhà Đường thả sức vơ vét bóc lột, khiến cho dân ở cả ba miền nước phải điêu đứng trăm bề.
Bạn bè của Mai Thúc Loan đều cho rằng thời cơ khởi nghĩa đã đến, nhưng vốn thận trọng nên Mai Thúc Loan hãy còn cân nhắc đắn đo. Mao Hoành, Tùng Thụ hiến kế:
Thưa huynh trưởng, chúng ta chẳng nên lo lực lượng chưa đủ. Dân ta đã có câu: “Một cây làm chẳng lên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Nay ta nên liên kết với Lâm Ấp và Chân Lạp thì ắt hẳn sẽ đánh đuổi được quan quân nhà Đường.
Mọi người khen phải. Tiết Anh, Hoắc Đan tình nguyện xin đi sứ sang hai nước láng giềng. Nhưng Khổng Qua, Cam Hề, Sĩ Lâm, Bôï Tân cùng đứng dậy nói:
– “Ta chưa nên cử người đi sứ vội bởi vì danh chưa chính. Trước hết ta dựng ngay cờ khởi nghĩa rồi đem quân chiếm châu thành. Sau đó, huynh trưởng sẽ lên ngôi Hoàng đế, thiết lập giang sơn riêng. Lúc ấy, cử người đi sứ ắt sẽ được hai nước kia hưởng ứng.”
Bài viết liên quan:
Mai Thúc Loan nói:
– “Xin đa tạ tấm thịnh tình của anh em. Lời bàn thật chí lý. Nhưng chúng đã ta thề sống chết có nhau, hà cớ gì phải lên ngôi để trong anh em có sự cách bức?”
Phòng Hậu, Thôi Thặng, Phục Trường Thủ, Đàn Vân Du thấy vậy, cùng nói:
– “Huynh trưởng lâu nay đối xử với anh em thế nào, chúng tôi đều đã rõ. Sau này nếu có lên ngôi thì chẳng qua chỉ là sự bắt buộc để cho chính lệnh được nghiêm mà thôi. Chúng ta cùng nhau làm việc nghĩa đánh đuổi quan quân nhà Đường, ai đáng việc gì thì làm việc ấy, chứ đâu phải để ngồi chia nhau bổng lộc?”
Mai Thúc Loan đặt cả hai tay lên ngực:
– “Anh em đã nói vậy, tôi cũng dám thêm nhiều lời. Chỉ xin anh em chứng dám cho lòng này trước làm sao sau làm vậy mà thôi.”
Ngay ngày hôm sau, Mai Thúc Loan cùng các bạn bè dựng cờ khởi nghĩa. Rồi chiêu binh mãi mã, đắp lũy xây thành. Chỉ trong vòng một tuần được các nơi gần xa hưởng ứng, quân số đã lên tới gần mười vạn.
Sau khi sắp đặt người chỉ huy các quân và đạo, Mai Thúc Loan dẫn đại binh tiến đánh thành Hoan Châu. Quan quân nhà Đường hoảng sợ, không dám chống cự lại, đã bỏ thành mà chạy.
Mai Thúc Loan vào thành, chia quân đóng giữ các ngã. Rồi, trước lời thỉnh cầu của mọi người, Ngài lên ngôi Hoàng đế ở phía nam Hương Lãm. Đó là vào đầu mùa hạ năm Quý Sửu, tức vào niên hiệu Khai nguyên thứ nhất đời Đường Huyền Tông (712). Nhà vua tự cho mình thuộc về đức thủy, tượng trưng bằng màu đen, và xưng là Hắc Đế.
Mai Hắc Đế sắp đặt triều thần vào các chức vụ nhhư sau: Phòng Hậu làm Quân sư, Thôi Thặng làm Thái úy, Phục Trường Thủ làm Tham mưu, Đàn Vân Du làm Tán nghị, Mao Hoành làm Thái trung đại phu, Tùng Thụ làm Thị trung nội sử, Sĩ Lâm làm Hộ quân, Bộ Tần làm Lang tướng, Tiết Anh làm Lâm Ấp thông vấn sứ, Hoắc Đan làm Chân Lạp cáo dụ sứ.
Năm sau, năm Giáp Dần, Tiết Anh, Hoắc Đan phụng chỉ đi sứ sang Lâm Ấp và Chân Lạp. Dân hai nước này bấy lâu cũng bị khổ nhục vì quan quân nhà Đường, đến nay thấy nước ta khởi nghĩa thắng lợi, nên nhiệt liệt hưởng ứng. Vua Lâm Ấp Phạm Hề Dĩnh sai tướng Chư Hương An đem mười vạn quân, vua Chân Lạp Hồ A Khiêm sai tướng Tham Ninh cũng đem mười vạn quân, đến Hương Lãm hội kiến.
Uy danh của triều đình Mai Hắc Đế vì thế mà ngày một càng lừng lẫy. Quan quân nhà Đường hoảng sợ. Viên Thứ sử Hoan Châu cũ là Tào Chân Tĩnh phải lui quân về giữ Quế Sơn.
Mai Hắc Đế tiếp tục cho quân tiến đánh Quế Sơn, rồi Long Biên. Quan quân nhà Đường phải rút chạy về nước. Thành Long Biên về tay quân ta.
Từ đó trở đi, đất nước thái bình, dân chúng yên tâm làm ăn sinh sống, các bộ tộc thiểu số xung quanh cũng đều về thuần phục cả.
Năm Bính Thìn (715), vua Đường đã dẹp xong nội loạn, bèn sai Dương Tử Đức là Tả giám môn vệ và Nguyên Sở Khách làm Đô hộ phủ mang hơn ba mươi vạn quân, chia làm hai hướng đường thủy bộ, cùng tiến vào Long Biên. Một trận chiến đấu ác liệt diễn ra. Cuối cùng, do chênh lệch lực lượng, quân ta thất bại, phải rút chạy về Hương Lãm (Nghệ An).
Quân nhà Đường vào thành Long Biên củng cố lực lượng, rồi mấy năm sau, mang đại binh tiến đánh Hương Lãm, vây bức phủ thành. Mai Hắc Đế cùng tướng sĩ ra sức ngày đêm cố thủ. Nhưng lương thực ngày một cạn dần, quân số cũng hao tổn thêm sau các trận chiến đấu. Cuối cùng, thành bị vỡ, Mai Hắc Đế cùng tướng sĩ tử chiến với quân giặc và hy sinh oanh liệt giữa trâïn tiền.
Tính ra, từ năm nhà vua lên ngôi, Quý Sửu (712), đến khi thất thủ, Nhâm Tuất (722), là vừa tròn 10 năm, và đã để lại cho hậu thế một sự nghiệp thật là hiển hách.
Để tưởng nhớ công đức của Ngài, người đời sau đã xây dựng đền miếu thờ ở ngay chỗ mà trước kia là cung điện của Ngài. Hương khói quanh năm không lúc nào dứt. Mọi người đến để tưởng nhớ và cầu xin vong linh Ngài phù hộ độ trì cho.
Đền thờ Ngài ở xã Nam Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đền đã được xếp hạng công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
Các triều đại trước kia mỗi khi chính vị đều có sắc thượng phong: “Anh Vũ thần dũng Hoàng đế”, “Vĩ tích uy liệt Hoàng đế”, ” Minh mẫn thần vũ minh đức Hoàng đế” – Đó là những mỹ hiệu mà các thời Trần trùng hưng đã tặng cho Ngài. Các triều đại về sau cũng đều noi theo gương đó.
Ngày nay, nhiều trường học, đường phố đã mang tên Ngài.
Truyền thuyết Việt Nam – nhiều tác giả,