Toc
Khoảng nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, người Sumer đã thiên di đến lưu vực Lưỡng Hà, từ bỏ dần lối sống du mục. Họ xây đắp nhiều công trình trị thủy, lấy nước tưới tiêu cho hoạt động kinh tế nông nghiệp, biến Lưỡng Hà thành một khu vực “có đầy đủ những điều kiện tốt nhất đối với nông nghiệp” (Hêrôđốt). Những quốc gia tối cổ của người Sumer đã xuất hiện vào cuối thiên niên kỉ IV, đầu thiên niên kỉ III TCN, nổi tiếng nhất là Êriđu, Lagas, Ua, Umma, Uruc…
Tình hình phát triển kinh tế của người Sumer
Mỗi quốc gia Sumer đều có những viên quan đặc trách công tác thủy lợi, người Sumer gọi là những Nubanđa.
Mặc dù hiếm kim loại và tuyệt đại bộ phận kim loại phải mua từ Êlam và Iran về, nhưng người Sumer cũng có những thành đạt nhất định trong lĩnh vực thủ công nghiệp. Họ đã chế tạo được đồ gốm tinh xảo, dệt được nhiều loại vải.
Từ thiên niên kỉ III TCN cùng với gỗ, người Sumer đã sử dụng đồng thau để chế tạo công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng và đồ trang sức.
Nằm trên vị trí giao thông quan trọng có sản phẩm nông nghiệp và thủ Công nghiệp tương đối phong phú, nên việc buôn bán giữa các thành thị của Lưỡng Hà với nhau và với các nước phụ cận đã sớm phát triển. Tuy nhiên, hoạt động thủ công nghiệp và thương mại của Sumer mang đậm tính chất của nền kinh tế tự nhiên. Sản phẩm làm ra chủ yếu để tiêu dùng trong công xã. Những thỏi đồng, bạc được sử dụng như một loại tiền tệ đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến, trao đổi theo phương thức vật đổi vật vẫn chiếm địa vị chủ đạo, kể cả trong ngoại thương (người Lưỡng Hà mang những sản phẩm của họ như lông cừu, lương thực sang các nước lân bang để đổi lấy kim loại).
Các tầng lớp xã hội của người Sumer
– Sự phát triển của chế độ tư hữu đã tạo nên 2 giai cấp cơ bản trong xã hội Lưỡng Hà : giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Giai cấp thống trị
Giai cấp thống trị bao gồm quý tộc và tầng lớp tăng lữ, nắm quyền sở hữu ruộng đất. Về danh nghĩa, ruộng đất trong toàn quốc thuộc về Patesi – người đứng đầu mỗi quốc gia. Nhưng trên thực tế phân bổ thành nhiều bộ phận: ruộng đất của Patesi, hoàng tộc, quý tộc, quan lại và các đền miếu.
Số ruộng đất này khá lớn. Bọn quý tộc đã thiết lập nên những trang trại riêng của chúng, rộng hàng nghìn ha, bản thân Patesi có những trang trại riêng giao cho những người thân tín trông coi (với bổng lộc do nhà vua cấp bằng chính ruộng đất từ 200 – 300 ha cho một người).
Đền miếu cũng chiếm nhiều ruộng đất, ở quốc gia Lagas vào thiên niên kỉ III TCN, số ruộng đất thuộc sở hữu của các tăng lữ đã chiếm hơn nửa tổng số ruộng đất cả nước. Số ruộng đất còn lại thuộc quyền cai quản của các công xã nông thôn. Ruộng công xã được chia nhỏ theo định kì và giao cho mỗi gia đình canh tác.
Nông dân công xã nhận ruộng phải nộp thuế cho nhà nước, đồng thời phải làm nhiều nghĩa vụ khác như nghĩa vụ quân sự, lao dịch không công trên ruộng đất của quý tộc, đền miếu, lao động nghĩa vụ xây dựng các công trình công cộng, đền miếu, lăng tẩm, đường sá, công trình thủy lợi…
Tầng lớp bị trị
Nông dân công xã là bộ phận cư dân đông đảo nhất của xã hội Sumer. Về danh nghĩa, họ là những người tự do, được công xã chia ruộng đất, có tư liệu sản xuất và tự canh tác trên những phần ruộng được chia. Nhưng trong thực tế, họ bị lệ thuộc, cai quản và chịu sự bóc lột của giai cấp quý tộc. Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, là chỗ dựa và là đối tượng bị bóc lột chủ yếu của nhà nước, những nông dân công xã ở Sumer lại sống gắn bó chặt chẽ với công xã của mình theo những tập tục riêng, khép kín, ít quan tâm tới những biến động của nhà nước.
Sự tồn tại các công xã nông thôn và lối sống của các nông dân trong công xã đã tạo nên đặc trưng riêng của tổ chức xã hội người Sumer ở các thiên niên kỉ IV, III TCN.
Bài viết liên quan:
- https://ngaydacbiet.com/trang-thai-kinh-te-xa-hoi-cua-vuong-quoc-co-babylon/
- https://ngaydacbiet.com/dieu-kien-tu-nhien-va-cu-dan-luong-ha-co-dai/
- https://ngaydacbiet.com/darius/
- https://ngaydacbiet.com/su-tich-vuon-treo-babylon-vuon-hoa-tren-khong-trung/
- https://ngaydacbiet.com/lich-su-luong-ha-co-dai-nguon-su-lieu-va-qua-trinh-nghien-cuu/
Tầng lớp quý tộc đã không ngừng dùng quyền thế của mình để lấn chiếm, cướp đoạt phần ruộng đất của nông dân công xã. Nông dân tự do bị tước đoạt tư liệu sản xuất ngày càng tăng. Nông dân công xã bị phân hóa, một bộ phận còn giữ được tư cách tự do theo đúng nghĩa của nó (tự do thân thể, tự do canh tác trên phần ruộng riêng của họ). Một bộ phận khá đông khác mất tư liệu sản xuất, trở thành những người lính canh hoặc làm thuê cho quý tộc, đền miếu. Một bộ phận khác (ít hơn) bị bần cùng, bị biến thành nô lệ của các gia đình chủ nô hoặc cho các đền miếu.
Bộ phận cuối cùng trong tầng lớp bị trị là những người nô lệ. Nhiều tài liệu ở Lưỡng Hà thuộc thiên niên kỉ III TCN đã nói tới họ. Nguồn cung cấp nô lệ chủ yếu cho xã hội Sumer là những tù binh bị bắt trong chiến tranh hay được mua từ nước ngoài về (giá một nô lệ khoảng chừng từ 14 đến 20 Sêken bạc bằng 117 – 170g bạc), trong số đó, nữ nô lệ chiếm tỉ lệ cao hơn.
Giống như Ai Cập, chế độ nô lệ ở các quốc gia cổ đại Sumer đã tồn tại và phát triển trong khuôn khổ của chế độ nô lệ gia trưởng. Số lượng nô lệ không đáng kể so với lực lượng đông đảo nông dân công xã. Lao động của nô lệ (dù là của nhà nước, hay tư nhân) được sử dụng trong một số ngành sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, đào đắp những công trình thủy lợi,… Thậm chí nô lệ cũng thành vật hi sinh trong các lễ tế thần, nhưng lao động của họ không phải là lao động cơ bản của xã hội. Quan hệ bóc lột chủ đạo cũng không phải là quan hệ giữa quý tộc chủ nô và nô lệ.
Nhà nước và quý tộc Sumer vừa bóc lột nông dân công xã, vừa bóc lột sức lao động của nô lệ, bởi vậy sự đối đầu và mâu thuẫn giữa quần chúng bị trị – nông dân công xã, thợ thủ công, nô lệ, với nhà nước và giai cấp quý tộc trở thành mâu thuẫn cơ bản của xã hội. Tiếc rằng còn quá ít tài liệu ghi chép về những cuộc đấu tranh trong xã hội Sumer. Do vậy, bức tranh về phong trào phản kháng của quần chúng lao khổ ở Sumer còn mờ nhạt, chỉ còn lại sử liệu ghi chép không chi tiết về phong trào đấu tranh sôi động của thợ thủ công, nông dân công xã và nô lệ ở quốc gia thành thị Lagas, lật đổ quyền lực của Patesi tàn bạo ở Lagas, đưa Urucaginna lên ngôi Patesi, thực hiện một số cải cách có lợi cho những người nghèo khổ. Như nới rộng quyền tự do cho các thành viên công xã nông thôn, hạn chế sự bóc lột quá mức của bọn quý tộc quan lại…
Tổ chức nhà nước của người Sumer
Tổ chức chính trị và hình thái nhà nước của người Sumer cũng được xây dựng và phát triển theo hướng của một nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Khuynh hướng tăng cường quyền lực vào tay nhà vua và tập đoàn quý tộc thống trị được xúc tiến ngày một mạnh mẽ.
Đứng đầu mỗi quốc gia của người Sumer là Patesi (cũng có nơi gọi là Lugalơ – người chủ). Thoạt đầu, Patesi do hội đồng dân biểu bầu ra, là người đại diện của tầng lớp quý tộc thị tộc, dần dần Patesi trở thành một chức vị có tính chất cha truyền con nối, thâu tóm trong tay mình mọi chức năng và quyền lợi:
- Patesi là đại diện tối cao của tầng lớp tăng lữ, là đại diện của thần dân trước các thần thánh;
- Patesi là người chỉ huy quân đội Sumer, người quản lý kinh tế, coi sóc các công trình công cộng và là người sở hữu tối cao mọi đất đai trong một quốc gia.
Dưới các Patesi và giúp việc cho Patesi là một hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương. Đứng đầu hệ thống quan lại đó là Nubanđa (gần giống như Vidia ở Ai Cập) trông coi hoạt động kinh tế, kho tàng và thủy lợi. Tiếp đó là các quan lại đặc trách các công việc khác như thu thuế, các hoạt động thương mại, quân sự, kho tàng, xây dựng các công trình công cộng…
Bên cạnh việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước Sumer cổ đại cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho bọn quý tộc chiếm nhiều đất đai và tư liệu sản xuất khác, trên cơ sở đó để tiến hành bóc lột cư dân bị thống trị – Có những tên quý tộc chiếm giữ tới 200 – 3000 ha đem phát canh để thu tố thuế.
Tuy nhiên, nét nổi bật của nhà nước Sumer thời kì này là tính chất sơ khai của nó và những tàn dư của chế độ dân chủ bộ lạc, thị tộc còn tồn tại khá phổ biến. Ở các quốc gia Sumer vẫn tồn tại các hội đồng nhân dân và hội đồng bô lão (trưởng lão) với những quyền lực nhất định: đề cử và chọn lựa những quan chức của bộ máy nhà nước, quyết định những vấn đề hệ trọng của quốc gia (tuyên chiến hay kí kết hòa bình…).
Mặt khác sự bền vững của công xã nông thôn Sumer cũng đã buộc nhà nước phải sử dụng tới các cơ quan quản lí của công xã như là bộ phận của guồng máy cai trị trong cả nước ; có như thế nhà nước mới có thể với tay xuống các làng xã và điều khiển các thành viên trong công xã nông thôn.
Do vậy, nhà nước ở Sumer ngay từ khi mới thiết lập do những nhu cầu và đặc trưng riêng của nền kinh tế, thiết chế xã hội đã được xây dựng theo khuynh hướng của một nhà nước quân chủ, tập quyền. Nhưng thể chế trung ương tập quyền này chưa ổn định, vững mạnh. Những tàn dư của xã hội thị tộc, sự tồn tại dai dẳng của các công xã nông thôn phần nào đã làm cho thể chế chính trị của người Sumer mang sắc thái riêng. Và đó cũng là lí do vì sao trong suốt nửa đầu thiên niên kỉ III TCN, các quốc gia Sumer luôn luôn đấu tranh với nhau. Họ cố gắng vươn tới để xác lập một quốc gia chung thống nhất nắm bá quyền ở khu vực, nhưng chưa có quốc gia nào đủ sức thống nhất toàn bộ khu vực Lưỡng Hà thành một khối thống nhất hùng cường.
Lịch sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục,